Phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh

2/7/2018 2:09:41 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 18

(CNQP&KT) - Phong cách cùng với phương pháp ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định trong việc hiện thực hóa tư tưởng ngoại giao của Người, góp phần đưa Hồ Chí Minh trở thành một nhà ngoại giao kiệt xuất, người sáng lập nền ngoại giao Việt Nam hiện đại.

Phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh rất phong phú, đặc sắc, có thể khái quát bao gồm phong cách tư duy, phong cách ứng xử, phong cách nói và viết trong đối ngoại.

Phong cách tư duy của Hồ Chí Minh, đó là tư duy độc lp, tự chủ, sáng to. Đó là sự giao thoa, tích hợp bởi động cơ, bản lĩnh chính trị, sự nhạy cảm và trí tuệ minh triết, vì vậy, đã giúp Người luôn có một tầm nhìn chiến lược về đối ngoại cũng như về cách mạng Việt Nam.

Lịch sử đối ngoại Việt Nam cho thấy, với cương vị đứng đầu Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn xuất phát từ thực tế tình hình thế giới, khu vực, trong nước; nhu cầu, lợi ích của dân tộc và cách mạng để hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại. Tiêu biểu cho phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh là khi nước Pháp bị phát xít Đức xâm lược ngày 6/6/1941, trong lời kêu gọi đồng bào, Người nhấn mạnh: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng” (1). Trong hoạch định đường lối xây dựng CNXH ở miền Bắc sau năm 1954, Người chỉ rõ: “… tuy chúng ta có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta không thể áp dụng kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta”(2).

Phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh thể hiện ở các giá trị nổi bật, đó là: Trong giao tiếp, ứng xử với mọi người ở các cương vị thuộc các quốc gia, dân tộc khác nhau, Người luôn làm họ cảm thấy sự gần gũi, thân tình, sự bình dị, chân thành. Trong các hoạt động đối ngoại, Người luôn thể hiện sự tôn trọng, tinh tế và lịch lãm, phù hợp với từng đối tượng cụ thể, song không chút pha trộn xã giao hình thức. Đặc biệt, Người không câu nệ về “đối đẳng chức vụ” thường thấy trong thông lệ ngoại giao quốc tế, mà rất linh hoạt để thực hiện hiệu quả các hoạt động đối ngoại. Người từng nói: “Bác có thể tiếp một đoàn văn công, một đội bóng đá… sao lại không thể tiếp một vị Thượng tướng, một nhà hoạt động xã hội vì Việt Nam?... Các chú phải làm sao để mỗi người bạn quốc tế đến nước ta là gần và yêu Việt Nam hơn”. Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Sự ứng xử linh hoạt của Hồ Chí Minh trong giao tiếp ngoại giao đã trở thành những câu chuyện huyền thoại”.


Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu Tổng thống Pra – Sad, vị khách quý, sứ giả lớn của Ấn Độ với nhân dân ta (năm 1959).      Ảnh: TL

Phong cách nói và viết trong đối ngoại của Hồ Chí Minh, là nói giản dị, dễ cảm hóa, dễ thuyết phục; viết ngắn gọn, hàm súc, dễ hiểu. Phong cách đó được Người nêu ra: “Nói, viết cái gì? Nói, viết cho ai? Nói, viết để làm gì? Và nói, viết như thế nào?”; phải đạt yêu cầu: “Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết” (3).

Đặc trưng phong cách nói và diễn đạt của Hồ Chí Minh là trong giao tiếp, Người luôn tìm được những điểm tương đồng về ý tưởng, tâm hồn và văn hóa; bằng lý lẽ tự nhiên, song đầy tính thuyết phục để khơi dậy tình cảm nhân văn của người đối thoại, thuyết phục họ chấp nhận lẽ phải. Đặc biệt, trong lúc trả lời phỏng vấn trực tiếp, khi gặp những câu hỏi phức tạp, với vốn tri thức sâu rộng và sự nhạy bén chính trị, Người luôn sử dụng lý lẽ ngắn gọn, xác đáng, nhiều khi đặt câu hỏi thay cho trả lời một cách hết sức tinh tế. Người luôn căn dặn cán bộ ngoại giao là phải nhanh trí, biết đối đáp có lý lẽ, buộc đối phương phải chịu thì mới giữ gìn được quốc thể.

Cùng với phong cách nói, diễn đạt, Hồ Chí Minh là người có biệt tài viết ngắn gọn, súc tích, giản dị, song hết sức chặt chẽ. Phong cách viết đó là kết quả của quá trình rèn luyện nghiêm khắc, công phu từ khi Người viết báo ở Pháp. Riêng viết về ngoại giao, Người viết đặc biệt ngắn gọn, mạch lạc với những luận cứ khách quan, cụ thể để bày tỏ lập trường và nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam. Khi đưa ra những thông điệp, trong những trường hợp cần thiết, Người viết rất đanh thép như trong Lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập tự do” ngày 17/7/1966, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Giôn-xơn và bè lũ phải biết rằng, chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tăng cường đánh phá miền Bắc, nhưng chúng không thể lay chuyển được ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng… Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do…” (4). Khi cần biểu đạt tình cảm chân thành, nồng hậu, Người sử dụng ngôn từ hết sức đơn giản, trong sáng như trong bức điện gửi bác sĩ Xác-tô-nô, Chủ tịch Quốc hội In-đô-nê-xi-a ngày 7/8/1957: “Tôi rất sung sướng được biết tin Ngài đến thăm nước Việt Nam chúng tôi. Tôi xin tỏ lòng nhiệt liệt hoan nghênh Ngài. Tôi chắc rằng việc Ngài đến thăm Việt Nam sẽ tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước… Chúc Ngài mạnh khỏe” (5). Trong phát biểu tiễn Tổng thống In-đô-nê-xi-a Xu-hác-tô ngày 29/6/1959, Người đã kết bằng những câu thơ lục bát mang đậm hồn dân tộc:

“Nhớ nhung trong lúc chia tay

Tấm lòng lưu luyến cùng bay theo Người

Người về Tổ quốc xa khơi

Chúc Người thắng lợi, chúc Người bình an” (6).

Có thể nói, tư tưởng, phương pháp, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh đã thực sự là kim chỉ nam cho các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, đưa ngoại giao trở thành một “mặt trận” quan trọng trong công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Vì vậy, việc nắm vững và vận dụng phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh là rất quan trọng và cần thiết đối với đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (CNQP)nóiriêng trong quá trình hiện thực hóa chủ trương, kế hoạch hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng hiện nay.

Hiện nay, trong xu thế hội nhập sâu rộng với thế giới, ngành CNQP Việt Nam đang mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều đối tác, khách hàng ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ nhằm xúc tiến các hoạt động thương mại quân sự, thương mại kinh tế, nhận chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, trao đổi đoàn… Do đó, việc học tập và làm theo phong cách ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược và hết sức cần thiết. Để vận dụng giá trị phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh có chất lượng, hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ cán bộ Tổng cục CNQP cần quán triệt sâu sắc, nắm vững đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, nhất là Nghị quyết số 806-QUTW của Quân uỷ Trung ương “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Đồng thời, thực hiện nghiêm Quy chế tổ chức, quản lý và phối hợp công tác đối ngoại quốc phòng do Bộ Quốc phòng ban hành tháng 7/2010, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng,màtrc tiếp làQuâny Trungương vàsquản lý tập trung thống nhất của Bộ Quốc phòng đối với các hoạt động đối ngoại quốc phòng. Trên cơ sở đó, vận dụng sáng tạo giá trị phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh trong thực tiễn các hoạt động đối ngoại quốc phòng trên các nội dung chủ yếu:

Một là, vận dụngtưduyđộc lp, tự chủ, sáng tạovàogii quyết nhim vcông tácđối ngoi quc phòng theo chức năng nhiệm vụ của từng cánbTng cc CNQP. Để học tập, làm theo phong cách tư duy ngoại giao độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh, thì trong tư duy của mỗi cán bộ phải luôn có sự thống nhất cao giữa tính Đảng, tính nguyên tắc với tính năng động, sự mẫn cảm trong nhận diện cái mới, nhận diện đối tác - đối tượng nảy sinh trong thực tiễn công tác đối ngoại quốc phòng. Trên cơ sở đó, cán bộ theo từng cương vị chức trách, nhất là cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược phát huy tính độc lập, tự chủ, sáng tạo vào thực hiện nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng, đề ra chủ trương, kế hoạch, biện pháp thích hợp đạt chất lượng, hiệu quả cao nhất.

Hai là, vận dụng phong cách ứng xử ngoại giao Hồ Chí Minh trong thực hiện các nhiệm vụ công tác đối ngoại quốc phòng. Trong thực thi nhiệm vụ công tác đối ngoại quốc phòng được giao, cán bộ Tổng cục CNQP phải thực sự có phong cách ứng xử văn hóa. Đối với đồng chí, với nhân dân cũng như đối với bạn bè, đối tác quốc tế phải luôn cởi mở, chân tình, luôn thể hiện thái độ yêu thương, quý mến, trân trọng con người. Đồng thời, phải luôn học tập, rèn luyện từng bước hoàn thiện tính chuyên nghiệp trong ứng xử đối ngoại. Qua đó không chỉ góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, mà còn phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, xây dựng, phát triển văn hóa đối ngoại của Tổng cục CNQP và của Quân đội ta.

Ba là, vận dụng phong cách nói và viết ngoại giao Hồ Chí Minh trong thực hiện các nhiệm vụ công tác đối ngoại quốc phòng. Cán bộ Tổng cục CNQP cần học tập, rèn luyện phong cách nói và viết của Hồ Chí Minh trong ngoại giao với nội dung phù hợp với từng đối tác, bạn hàng cụ thể. Sử dụng ngôn ngữ nói, viết súc tích, ngắn gọn, chặt chẽ, tường minh, bảo đảm sự trong sáng của tiếng Việt.

Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cùng với phong cách ứng xử, phong cách nói và viết hợp thành phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh. Vì vậy, quá trình học tập, rèn luyện, vận dụng phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh, đòi hỏi cán bộ Tổng cục CNQP phải kết hợp chặt chẽ, đồng bộ mới đem lại ý nghĩa thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng của Tổng cục CNQP trong thời kỳ mới.

Đại tá, PGS, TS.Hà Nguyên Cát

Học viện Quốc phòng

 

 

Tài liệu tham khảo:

(1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB, CTQG, Hà Nội 2000, tập 3, Tr.198.

(2). Sđd, tập 8, tr.499.

(3). Sđd, tập 5, tr. 306.

(4). Sđd, tập 12, tr.108.

(5). Sđd, tập 8, tr.462.

(6). Sđd, tập 11,tr.76.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại