Xây dựng năng lực nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ ở Tổng cục CNQP

8/11/2017 2:33:48 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 57

(CNQP&KT) - Hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D) và chuyển giao công nghệ (CGCN) là hai phương thức chủ chốt để đổi mới công nghệ doanh nghiệp (DN), đảm bảo tăng năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm.

Với đặc thù của ngành, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (CNQP) rất cần quan tâm đến vấn đề này nhằm đảm bảo sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao. Để xây dựng năng lực R&D và CGCN nói chung và vận dụng vào đặc thù của Tổng cục CNQP nói riêng, bài viết dưới đây cung cấp những kiến thức cơ bản về quy trình thực hiện R&D và CGCN.

Tổng cục CNQP có chức năng tham mưu cho Bộ Quốc phòng và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ sản xuất vũ khí, trang thiết bị quân sự. Để hoàn thành nhiệm vụ, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ được trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật (KHKT) và quản lý hiện đại; cơ sở hạ tầng, thiết bị, máy móc và năng lực tài chính lớn. Hoạt động R&D và CGCN nhằm đảm bảo năng lực nghiên cứu, tiếp cận và tiến tới sản xuất các vũ khí, thiết bị công nghệ cao, hiện đại; đồng thời đảm bảo năng lực khai thác công nghệ tiên tiến, xây dựng nền tảng kiến thức KHKT vững chắc cho sự phát triển lâu dài. Trong bối cảnh hiện nay, xây dựng năng lực có ý nghĩa thực tiễn lớn. Năng lực cao là điều kiện chính để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động R&D và CGCN. Con đường để xây dựng năng lực là phải nhận thức và hiểu biết sâu sắc về quá trình xây dựng năng lực; gắn phát triển năng lực với phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh và với chiến lược phát triển của DN.

           Xây dựng năng lực nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ

Xây dựng năng lực là “xây dựng khả năng của các cá nhân, các nhóm, các tổ chức và hệ các tổ chức về xác định và giải quyết những vấn đề phát triển theo thời gian” (Peter Morgan, 1996). Ở đây, chỉ đề cập đến xây dựng và phát triển năng lực như một việc làm để tăng cường khả năng đề xuất, đánh giá, kiểm soát việc thực hiện các nhiệm vụ nói chung và hoạt động R&D và CGCN nói riêng, từ đó vận dụng trong Tổng cục. Xây dựng năng lực kỹ thuật nhằm giải quyết những vấn đề chuyên môn kỹ thuật cụ thể, liên quan đến việc thực hiện các dự án R&D hay CGCN. Xây dựng năng lực quản lý là làm cho năng lực tầm nhìn, đề xuất nhiệm vụ, lãnh đạo, quản lý, huy động nguồn lực trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ được hoàn thiện và đầy đủ hơn, đáp ứng tốt hơn trước sự thay đổi nhanh chóng của môi trường hoạt động. Tuy nhiên, phát triển năng lực quản lý thường chậm, phức tạp và đòi hỏi phải liên tục, có chiều sâu về văn hóa, tầm nhìn và giá trị của cá nhân, tổ chức.

Quy trình xây dựng năng lực

Để xây dựng năng lực thực hiện R&D và CGCN có thể áp dụng quy trình 5 bước của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc - UNDP (2013) như sau:

Thứ nhất, đảm bảo tất cả các bên liên quan tham gia vào quá trình phát triển năng lực. Các bên liên quan gồm cơ quan quản lý, các bộ phận trực tiếp thực hiện R&D hay CGCN và các bộ phận phục vụ cho các hoạt động này. Việc tham gia và được chia sẻ kết quả của sự phát triển sẽ nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ. Do đó, sẽ đảm bảo tính bền vững và hiệu quả của việc xây dựng, phát triển năng lực.

Thứ hai, đánh giá nhu cầu năng lực. Đánh giá nhu cầu năng lực phải dựa trên chiến lược phát triển của Tổng cục hoặc của các viện nghiên cứu và các DN; dựa trên yêu cầu đảm bảo hoạt động R&D, CGCN và đổi mới công nghệ một cách có hiệu quả. Đánh giá nhu cầu năng lực cần dựa trên những cách tiếp cận khoa học và sử dụng các phương pháp và kỹ thuật hiện đại đối với việc hình thành, quản lý quá trình và đánh giá kết quả, cũng như các tác động trước mắt và lâu dài của các dự án, chương trình R&D, CGCN.

Thứ ba, hình thành những vấn đề phát triển năng lực của Tổng cục hay của các đơn vị. Sau khi đã đánh giá nhu cầu về năng lực, những vấn đề về xây dựng năng lực phải được hình thành, dựa trên 4 vấn đề cốt lõi sau đây:

Tổ chức thực hiện: Hoạt động thiếu hiệu quả của các tổ chức, DN thường liên quan đến sự yếu kém về nguồn lực, chính sách và do các yếu tố thủ tục, quản lý, tổ chức, lãnh đạo, công tác kế hoạch và thông tin gây ra. Giải quyết sự yếu kém này thường được thực hiện bằng quản lý và phát triển nguồn nhân lực một cách khoa học và có kế hoạch. Phát triển nguồn nhân lực cần thông qua hệ thống các chính sách và công tác tuyển dụng, đánh giá và sử dụng đội ngũ cán bộ một cách khoa học.

Về lãnh đạo: Lãnh đạo luôn có vai trò quyết định đối với sự thành bại của mọi kế hoạch. Nói tới lãnh đạo là nói tới tầm nhìn chiến lược, là khả năng tập hợp và tổ chức lực lượng, là việc đề ra các cơ chế, quy định, chính sách, thực hiện quản lý, điều hành quá trình thực hiện nhiệm vụ. Nói đến lãnh đạo còn phải nói đến phong cách làm việc, sao cho vừa động viên, thu phục được cấp dưới, vừa đảm bảo mọi nhiệm vụ được hoàn thành một cách tốt nhất và về khả năng tổ chức thực hiện nhiệm vụ.

Về kiến thức: Tổng cục CNQP và DN cần tạo cơ hội để mọi cán bộ có điều kiện học tập và cập nhật kiến thức, phát triển kỹ năng nghề nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, bổ sung các kiến thức thuộc lĩnh vực quản lý, các phương pháp và công cụ hiện đại hỗ trợ cho quản lý, như: Thẩm định năng lực và nhu cầu công nghệ, đánh giá các chương trình dự án và thẩm định những ảnh hưởng của các chương trình, dự án R&D và CGCN là việc làm có ý nghĩa khoa học và vô cùng thiết thực.

Về trách nhiệm: Tinh thần trách nhiệm cao là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả của hoạt động chuyên môn kỹ thuật và quản lý. Việc đánh giá trách nhiệm cần được tiến hành một cách nghiêm túc, thực chất, tránh nể nang, hình thức. Việc đánh giá trách nhiệm có thể thúc đẩy sự phát triển năng lực nghiên cứu, quản lý nói riêng và thực hiện nhiệm vụ nói chung.

Thứ tư, thực hiện những vấn đề về phát triển năng lực. Việc thực hiện chương trình xây dựng năng lực là một quá trình phức tạp, được xây dựng thành một kế hoạch, đảm bảo hình thành năng lực mới cho tổ chức, DN của Tổng cục. Những kế hoạch này liên quan đến kế hoạch quản lý và phát triển nguồn nhân lực theo định hướng phát triển sản xuất, kinh doanh, chuyên môn, nghiệp vụ của các tổ chức, DN; phát triển tổ chức hoặc ngành nghề, sản phẩm mới dựa trên hoạt động đổi mới sáng tạo hay CGCN; liên quan đến những thay đổi về tổ chức và cơ chế làm việc; việc hoàn thiện hệ thống chính sách về chuyên môn, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động R&D…  Để đảm bảo phát triển năng lực mới gắn liền và tương tác hiệu quả với các hoạt động sáng tạo, phát triển hoạt động kinh doanh mới thì các hoạt động này phải được lồng ghép vào chiến lược sản xuất, kinh doanh của DN. Phải khẳng định, phát triển các hoạt động kinh doanh và xây dựng năng lực mới là hai mặt của một quá trình đổi mới của DN.

Thứ năm, đánh giá phát triển năng lực. Việc đánh giá phải dựa trên những thay đổi của tổ chức về các vấn đề chính, như nguồn nhân lực, thể chế, lãnh đạo, kiến thức và trách nhiệm. Để đánh giá cần có các tiêu chí nhằm xác định hiệu quả của các dự án về phát triển năng lực; việc đánh giá cần có sự tham gia của tất cả các đối tượng có liên quan đến xây dựng năng lực. 

Quản trị và đánh giá - Công cụ xây dựng năng lực

Công cụ để xây dựng năng lực là hoạt động quản trị và đánh giá, qua đó có thể hoàn thiện những hoạt động hằng ngày; tạo ra những thay đổi, bỏ đi những gì không còn phù hợp. Những thay đổi này có thể được lên kế hoạch trước và thông qua việc thực hiện các dự án cụ thể về xây dựng năng lực.

Nội dung của quản trị và đánh giá quá trình xây dựng năng lực bao gồm: Xây dựng các tiêu chí; đề xuất cách khắc phục những trở ngại liên quan đến quản trị và đánh giá trong xây dựng năng lực; xác định phạm vi không gian và thời hạn đánh giá, phù hợp với mục tiêu và điều kiện của tổ chức mình; thống nhất về quản trị và đánh giá ở các cấp, có cách tiếp cận phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của tổ chức mình; nắm vững các công cụ xây dựng tổ chức và sử dụng chúng một cách hợp lý; lập kế hoạch, quản trị và đánh giá việc xây dựng năng lực; gắn kết phát triển năng lực với phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh mới; gắn phát triển năng lực với chiến lược phát triển của Tổng cục CNQP và các DN.

Chúng ta nhấn mạnh phát triển kinh doanh mới hoặc công ty khởi nghiệp là một động lực thúc đẩy đổi mới công nghệ của DN, nhưng các hoạt động này chỉ có ý nghĩa đầy đủ khi được gắn với chiến lược phát triển chung của Tổng cục và của DN. Tầm nhìn chiến lược của Tổng cục, của DN cần vượt lên khỏi nguồn lực và kiến thức cơ bản hiện có. Điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển năng lực hiệu quả hơn. Mặt khác, việc xây dựng năng lực mới cũng tác động và góp phần nâng cao nhận thức về chiến lược. Xây dựng năng lực và phát triển các hoạt động kinh doanh mới không những là một quá trình năng động mà còn là một quá trình tìm tòi, học tập của tổ chức.

Có thể nói, năng lực của một tổ chức quyết định khả năng vạch ra tầm nhìn, đề xuất nhiệm vụ, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện; thực hiện quản trị, đánh giá kiểm tra, kiểm soát và điều chỉnh mọi hoạt động theo chiến lược đã vạch ra, đảm bảo mọi mục tiêu của chiến lược được thực hiện một cách có hiệu quả. Xây dựng và phát triển năng lực của tổ chức liên quan đến tất cả các đối tượng, từ cá nhân đến tổ chức và thời gian để đạt được những thay đổi về năng lực. Việc xây dựng và phát triển năng lực R&D và CGCN của một đơn vị, DN cần có quyết tâm của lãnh đạo và sự tham gia của mọi người, sự quan tâm và giúp đỡ của cấp trên. Đối với Tổng cục CNQP, khi sản xuất, kinh doanh ngày càng phát triển, hội nhập ngày càng sâu rộng, yêu cầu về công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng lớn, thì việc quan tâm và tiến hành xây dựng năng lực nói chung và năng lực R&D, CGCN là rất cần thiết. Điều đó sẽ giúp Tổng cục CNQP có một diện mạo mới, sức mạnh mới.

Ths. Nguyễn Hồng Sơn*

PGS-TS. Ngô Văn Giao**

PGS-TS. Nguyễn Duy Bảo***

 

 

* Đại tá, Viện trưởng Viện Thuốc phóng - Thuốc nổ.

** Thiếu tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục CNQP.

*** Học viện Kỹ thuật Quân sự.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại