Chế tạo đạn hỏa lực trong kháng chiến chống Pháp

12/24/2020 3:43:24 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 56

CNQP&KT - Từ một xưởng mẫu nhỏ thuộc Nha Nghiên cứu kỹ thuật trong kháng chiến chống Pháp, với những chiếc máy quay tay, những người lính thợ Quân giới bằng nghị lực và lòng yêu nước đã làm ra những vũ khí có sức mạnh bất ngờ.

Những ngày tháng 5/1947, cuộc kháng chiến toàn quốc vừa mới bắt đầu, tình hình khắp nơi đang rất sôi động, tinh thần trong mỗi con người tham gia kháng chiến cũng lên rất cao. Thời điểm ấy, tôi đang ở bản Thi (Chợ Đồn, Bắc Kạn), một hôm tình cờ gặp lại anh Schulze (tên Việt Nam là Nguyễn Đức Việt), một người Đức đã rời bỏ quân đội viễn chinh Pháp sang đứng trong hàng ngũ của ta, anh khuyên tôi nên chuyển sang Nha Nghiên cứu kỹ thuật, vì ở đó mới thành lập một xưởng chế tạo mẫu, rất thiếu người. Sau khi tôi đồng ý, anh về báo cáo với cơ quan, ít lâu sau tôi được điều động tới Nha Nghiên cứu kỹ thuật, làm việc tại Xưởng mẫu.

Anh Schulze và tôi biết nhau từ khi còn ở Xưởng B2, thuộc Quân giới Khu II và đã cùng nhau chế thử súng phóng lựu, thủy lôi. Giờ nhờ anh giới thiệu, tôi lại được cùng anh công tác tại Nha Nghiên cứu kỹ thuật (thuộc Cục Quân giới).

Xưởng mẫu có danh nghĩa là một xưởng máy nhưng rất nhỏ. Khi tôi đến, công nhân của Xưởng đếm trên đầu ngón tay, gồm: một thợ tiện, một thợ rèn người địa phương, một thợ phụ rèn, một người đảm nhiệm việc quay máy. Thiết bị có một máy tiện, một máy phay, một máy dập vime. Tất cả máy móc đều phải quay tay vì không có điện. Cơ sở vật chất chỉ có vậy nhưng nhiệm vụ của Xưởng thì rất lớn, phải gia công mọi thứ cần thiết phục vụ cho các phòng nghiên cứu và chế thử sản phẩm.


​​​​Kiểm tra vũ khí do Xưởng Quân giới A1 (Chợ Mới - Bắc Kạn) sản xuất (năm 1948)       Ảnh: TL

Ngay trong những tháng đầu, Xưởng đã được giao nhiệm vụ chế tạo đạn chống tăng AT. Chúng tôi nhận nhiệm vụ trong điều kiện rất khó khăn: Điện chạy máy không có, nguyên liệu cũng không biết tìm ở đâu khi khu vực đóng quân là ở trên núi cao. Đó là chưa kể vốn kiến thức của chúng tôi về vũ khí còn ít, trình độ kỹ thuật cũng không cao. Để chế tạo đạn AT, chúng tôi lấy tôn cánh cửa ô tô hỏng làm nguyên liệu; sử dụng gò, hàn làm công nghệ chính để chế tạo thân đạn, chóp, ống đuôi và cánh. Bộ phận nào không gò được thì tiện, kể cả nón đồng. Tất nhiên là tốc độ chế tạo đạn rất chậm, sản phẩm làm ra không đều, không đẹp và phần lớn là bị vỡ khi bắn thử. Anh Nguyễn Đức Việt đề nghị sử dụng phương án dập bằng máy vime và đưa ra các bản vẽ, xưởng mẫu chịu trách nhiệm gia công.

Cái khó đầu tiên là làm sao có thép tốt để chế tạo chày, cối? Chúng tôi phát hiện từ bản Thi đến Đầm Hồng có một đường goòng dài 30km nên quyết định xuống đây nhặt trục goòng, bánh xe, tà vẹt, đường ray mang về. Sau đó, đem từng chiếc bánh xe nướng trên lò than củi cho đến khi vành “băng đa” bong ra rồi chặt thành từng khúc để chế tạo chày, cối. Tuy nhiên, sau mỗi lần dập rách hoặc nhăn nhúm lại phải sửa kích thước chày, cối, gần như phải làm lại từ đầu. Khi đã dập được thân đạn, ống đuôi, cánh đuôi thì lại đến lượt nón đồng bị rách. Cứ rút kinh nghiệm rồi làm đi, làm lại nhiều lần, cuối cùng chúng tôi cũng chế tạo thành công đạn AT và hoàn thiện quy trình chế tạo đạn đạt các yêu cầu về chiến, kỹ thuật. Theo yêu cầu của Cục Quân giới, các xưởng trong toàn quốc đều lần lượt cử người đến Khe Khao học tập cách chế tạo đạn AT.

Cuối năm 1947, quân Pháp tấn công lên Việt Bắc. Chúng nhảy dù xuống Chợ Đồn (Bắc Kạn), một cánh quân tiến vào bản Thi. Nha Nghiên cứu kỹ thuật và xưởng mẫu phải sơ tán về bản Eng. Sau khi bị thua đau ở Tuyên Quang, địch phải vội vã rút khỏi bản Thi. Chúng tôi lại quay về Khe Khao, lắp đặt máy móc hoạt động trở lại. Lần này chúng tôi đã có điện, không còn phải dùng sức người để quay máy. Trong điều kiện thời chiến, việc có điện là nhờ công của anh Bùi Minh Tiêu đưa được từ bản Thi lên và anh Đoàn Đà lấy được 2 đầu máy ô tô GMC của quân Pháp bỏ lại Tuyên Quang. Anh Đà cũng tìm được một số thợ máy nổ đưa về vận hành, nhờ đó Xưởng đã có một nguồn năng lượng độc lập để chạy máy, sản xuất vũ khí.

Năm 1948, Nha Nghiên cứu kỹ thuật chuyển về đóng tại Đồng Chiêm, phía Nam thị xã Tuyên Quang. Tại đây, chúng tôi đã nghiên cứu chế tạo súng và đạn không giật SKZ60. Súng do Phòng Xạ thuật và Phòng Cơ khí thiết kế, Xưởng mẫu chịu trách nhiệm chế thử sản phẩm. Nguyên liệu làm nòng súng là trục bánh xe tàu hỏa, bầu đạn làm bằng tôn thép và đuôi đạn dùng gỗ nghiến. Lúc này, Xưởng mẫu đã có thêm nhiều thợ tiện, đúc, gò... Đạn thí nghiệm là một thỏi chì có cùng trọng lượng với đạn thật. Mục đích của giai đoạn nghiên cứu thứ nhất là xác định đường kính tuye (ống phụt) vừa đủ để loại bỏ chuyển động giật lùi của nòng. Phương pháp thực nghiệm là đặt nòng súng, chứa thuốc và đạn chì, trên một chiếc xe có thể trượt trên đường ray. Khi bắn thử nếu xe trượt lùi là do tuye bị bé, còn xe tiến lên là bị to. Cứ thế, sau mỗi lần bắn thực nghiệm, Phòng Xạ thuật căn cứ vào mức độ chuyển động của xe trượt để tính toán lại đường kính của tuye để xưởng mẫu chế tạo lại cho chính xác. Sau nhiều lần thử, cuối cùng chúng tôi cũng đã thành công: phát bắn thử nghiệm đã không làm bánh xe chuyển động. Đến đây, thỏi chì được thay bằng đạn giả nhồi cát để thử nghiệm ngòi đạn, sơ tốc, thăng bằng, thước ngắm, cuối cùng là bắn thử bằng đạn thật. Kết quả là với cỡ bầu 120mm, viên đạn lõm này có sức xuyên phá 60cm bê tông, đủ sức chọc thủng tất cả các loại lô cốt, boong ke của Pháp lúc đó. Bản vẽ thiết kế chi tiết được chuyển cho các xưởng Quân giới Khu X chế tạo và chỉ một thời gian ngắn sau đó, súng và đạn DKZ 60 đã được sử dụng trong Chiến dịch Lê Hồng Phong (năm 1950), làm sụp đổ nhiều đồn, bốt của địch.

Năm 1949, quân Pháp đánh lên Việt Trì, Phú Thọ. Một lần nữa, chúng tôi lại phải cất giấu máy móc và sơ tán lực lượng. Sau khi địch rút, Nha Nghiên cứu kỹ thuật về đóng tại Nà Lằng, thuộc huyện Chợ Mới, Bắc Kạn. Lúc này, chúng tôi lại có thêm nhân lực và thiết bị mới, một phần từ K79 về, một phần từ cơ sở hóa chất sang. Bên cạnh xưởng mẫu còn có thêm bộ phận nghiên cứu nấu gang bằng lò cao loại nhỏ.

Sau đó không lâu, với thắng lợi của Chiến dịch Biên giới năm 1950, ta giải phóng được nhiều vùng quan trọng ở biên giới Việt - Trung, nối liền nước ta với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Lúc này, ngành Quân giới dần thu hẹp lại sản xuất và đến năm 1953 thì Nha Nghiên cứu kỹ thuật giải thể. Chúng tôi chia tay nhau, một số chuyển sang các đơn vị thuộc binh chủng kỹ thuật (pháo binh, cao xạ), một số chuyển ra ngoài Quân đội. Song đối với chúng tôi, kỷ niệm của những ngày làm việc tại Xưởng mẫu thuộc Nha Nghiên cứu kỹ thuật luôn là niềm tự hào. Ở đây chúng tôi đã cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, góp phần xây dựng và phát triển ngành Quân giới - Công nghiệp quốc phòng.

NGUYỄN ANH

(Theo đồng chí Hoàng Kim Khải, nguyên cán bộ Nha Nghiên cứu kỹ thuật)

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại