Giữa năm 1956, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định đưa một số học viên đang học tiếng Trung Quốc sang Liên Xô học. Các học viên này đến Trạm 66 (Hà Nội) tập trung. Tại đây, họ được tổ chức thành nhiều đoàn để đưa sang học tại các trường thuộc các quân, binh chủng của Quân đội Liên Xô. Đoàn đi học về kỹ sư vũ khí có 12 người, do đồng chí Nguyễn Duy Tráng làm trưởng đoàn và đồng chí Nguyễn Ngọc Duẩn là phó đoàn; thành viên trong đoàn có các đồng chí: Khang, Ngọc, Điều, Bưu, Ngọc, Lạc, Kiều, Toàn, Châu và Tám. Phần lớn thành viên trong đoàn trước đây đều làm công tác quân khí ở đơn vị. Sau khi nhận nhiệm vụ, học viên được nghỉ phép 7 ngày về thăm gia đình trước khi lên đường. Thời gian đó, do quy định của Hiệp nghị Giơnevơ, hộ chiếu và tư trang phải là dân sự nên mỗi người được cấp phát 2 bộ quần áo đại cán, 1 áo bông, 2 áo sơ mi... bọc kín trong vỏ chăn hoa.
Giữa tháng 8/1956, đoàn học viên lên tàu hỏa liên vận rời Việt Nam qua Cửa khẩu Hữu Nghị Quan (Lạng Sơn). Sau hơn 6 ngày đêm, tàu đến thủ đô Matxcơva (Liên Xô). Tại nhà ga, đại diện Đại sứ quán Việt Nam ra chào đón đoàn. Ngay sau đó, đơn vị tiếp nhận học viên đưa xe đến đón.
Sau khi điểm danh đủ 12 học viên, một vị đại tá người Nga ở Học viện Kỹ sư Pháo binh Đơzéczinski hỏi:
- Hành lý của các đồng chí đâu?
Vì vốn tiếng Nga kém, nên mọi người chỉ vào bọc quần áo đang cầm ở tay mà chưa thể giải thích ngay được. Vẻ mặt tỏ rõ sự ngạc nhiên, vị đại tá hỏi tiếp:
- Vali các đồng chí đâu?
Lúc này Trưởng đoàn Nguyễn Duy Tráng mới hiểu và trả lời:
- Chúng tôi không có vali, hành lý chỉ có thế này thôi.
Thấy vậy, đại diện Đại sứ quán ta phải giải thích rõ thêm nên vị sĩ quan cao cấp người Nga cũng hiểu ra, vui vẻ mời đoàn lên xe về Học viện Kỹ sư Pháo binh Đơzéczinski, cách Điện Kremli hơn 1km. Đoàn đến phòng làm việc của đồng chí Đại tá, Chủ nhiệm Khoa Học viên các nước xã hội chủ nghĩa. Sau khi nghe báo cáo, biết học viên Việt Nam đã học tiếng Trung, Học viện cử một học viên người Trung Quốc đưa mọi người đi tham quan trường.
Lưu học sinh quân sự Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa tại Học viện quân sự Liên Xô mang tên Phrunde. Ảnh: TL
Trước khi bước vào học tập, người có trình độ văn hóa cao nhất trong đoàn là đồng chí Bưu (lớp 9); hai đồng chí Duẩn và Tráng lớp 7, còn lại chỉ học từ lớp 2 đến lớp 5. Qua kiểm tra, Học viện đã báo với Đại sứ quán Việt Nam, yêu cầu 6 người phải học 2 năm dự bị và 6 người học 1 năm dự bị. Sau khi được Đại sứ quán hỏi ý kiến, cả đoàn quyết tâm cùng học 2 năm dự bị để giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ; đồng thời, phân công người có trình độ cao giúp đỡ những người có trình độ thấp hơn. Quyết tâm này của đoàn được Học viện và Đại sứ quán ta hoan nghênh. Việc học toán của đoàn được lên kế hoạch cụ thể: lớp 5, 6, 7 ở năm dự bị thứ nhất và lớp 8, 9, 10 ở năm dự bị thứ hai.
Trong buổi học đầu tiên, diễn ra vào đúng ngày 2/9/1956, Học viện tổ chức mít tinh kỷ niệm Ngày Quốc khánh Việt Nam. Sau khi kết thúc 6 giờ lên lớp, hàng nghìn học viên sĩ quan các nước Liên Xô, Đức, Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan, Rumani, Bungari, Trung Quốc, Triều Tiên và tất nhiên là cả số học viên Việt Nam tập trung về hội trường lớn. Một cán bộ Liên Xô mang quân hàm Đại tá chủ tọa buổi mít tinh, giới thiệu về vị trí địa lý, diện tích, dân số, truyền thống cách mạng của Việt Nam... Tiếp đó, đồng chí Nguyễn Duy Tráng trưởng đoàn lên phát biểu về ngày Quốc khánh Việt Nam bằng tiếng Trung và được một học viên người Trung Quốc dịch sang tiếng Nga.
Sau năm dự bị đầu tiên, quân số của đoàn có sự biến động khi đồng chí Điều phải về nước do chấn thương trong chiến tranh, ảnh hưởng đến não. Đến giữa năm dự bị thứ hai, đồng chí Khang và Ngọc bị chảy máu mũi, máu tai khi học môn trượt tuyết cũng phải về nước. Đoàn chỉ còn 9 người.
Hết 2 năm dự bị, cả 9 học viên Việt Nam đều được tuyển vào Học viện. Khi biết tin, các giáo viên, cán bộ, nhân viên của Khoa Học viên các nước xã hội chủ nghĩa đều rất vui. Họ cho biết, sĩ quan các nước xã hội chủ nghĩa muốn học ở Học viện phải có bằng tốt nghiệp Trường sĩ quan kỹ thuật và sau khi ra trường từ 2 đến 3 năm phải được nhận xét có triển vọng. Riêng sĩ quan các nước Đông Âu phải học 1 năm dự bị mới được thi vào Học viện. Nhưng Việt Nam là ngoại lệ, được Liên Xô ưu tiên đặc biệt: Không kể tuổi tác, trình độ, có biết tiếng Nga hay không, các học viện quân sự Liên Xô phải tìm mọi cách đào tạo theo yêu cầu của Việt Nam.
Các học viên tốt nghiệp tại Liên Xô được điều động về cơ quan Cục Quân giới, Cục Quân khí, các quân chủng, nhà máy, viện thiết kế, trường kỹ thuật quân sự… tham gia bảo đảm kỹ thuật cho chiến đấu và đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ngay từ năm thứ nhất, học viên Việt Nam phải học cùng học viên các nước bằng tiếng Nga. Học kỳ đầu bài giảng nhanh, ghi chép không kịp; nhiều nội dung khoa học phức tạp nên ngoài 6 giờ trên lớp, mọi người phải tự học thêm từ 5 đến 6 giờ nữa... Đặc biệt, có đồng chí học đến hơn 1 giờ sáng, đến nỗi Chi bộ Đoàn phải họp ra nghị quyết với nội dung rất cụ thể: “Không được học quá 12 giờ đêm, không được ăn ít hơn 45 rúp trong một tháng, tự học 50 phút phải nghỉ ra sân vận động 10 phút, ít hút thuốc lá... để bảo đảm sức khỏe”. Nhiều đồng chí mong đến ngày nghỉ, ngày lễ để có thời gian học thêm. Kết quả, hết năm học thứ nhất không có đồng chí nào bị điểm 2 (Liên Xô sử dụng thang điểm là 5/5), một số đồng chí toàn đạt điểm 4 và 5.
Hết năm học đầu tiên, đồng chí Bưu được phân học chuyên ngành máy chỉ huy, đồng chí Lạc học về pháo phòng không; ba đồng chí Tráng, Ngọc, Toàn học pháo mặt đất; đồng chí Duẩn và Tám học về đạn; đồng chí Kiều và Châu học vũ khí bộ binh.
Khi học lên năm thứ 2 và thứ 3, điểm thi các môn của học viên ta chủ yếu là điểm 4 và 5, số điểm 3 giảm nhiều. Vì thế, một số học viên các nước cho rằng giáo viên Liên Xô ưu ái học viên Việt Nam. Song họ dần dần nhận ra học viên ta nắm vững nội dung khoa học nhưng do diễn đạt bằng tiếng Nga kém nên hiểu lầm. Còn giáo viên Liên Xô biết được học viên sĩ quan châu Á tuy diễn đạt bằng tiếng Nga có khó khăn, nhưng rất cần cù nghiên cứu, học rất tinh nên đã đánh giá đúng khả năng từng người. Trong 5 năm học chính thức, học viên được học khoa học đại cương, các môn chuyên ngành về thiết kế, sản xuất, quản lý sử dụng, bảo đảm kỹ thuật, sửa chữa lớn vũ khí; chỉ huy bảo đảm kỹ thuật chiến đấu từ cấp phân đội đến cấp chiến dịch. Sau đó, học viên theo chuyên ngành đi thực tập ở các nhà máy.
Sau 7 năm học, cả đoàn (9 người) đều tốt nghiệp kỹ sư vũ khí. Trong đó, suốt 5 năm học chính thức, đồng chí Bưu chỉ có 1 điểm 4, đồng chí Duẩn và Tráng chỉ có 3 điểm 4, đồng chí Ngọ và Tám số điểm 5 trên 75% (không ai có điểm 3), nên cả 5 người đều đạt “bằng đỏ”.
Giữa năm 1963, đoàn về nước và được điều động về cơ quan Cục Quân giới, Cục Quân khí, các quân chủng, nhà máy, viện thiết kế, trường kỹ thuật quân sự… tham gia bảo đảm kỹ thuật cho chiến đấu và đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
NGÔ NHẬT DƯƠNG