Lựu đạn ghép mảnh sản xuất đơn giản, sát thương lớn

11/21/2023 3:18:55 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 129

CNQP&KT - Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngành Quân giới đã nghiên cứu chế tạo thành công lựu đạn ghép mảnh trang bị cho quân và dân ta đánh bộ binh địch. Đây là loại lựu đạn có cấu tạo và quy trình sản xuất đơn giản, nguyên liệu dễ kiếm, trọng lượng nhẹ, bán kính sát thương lớn.

Năm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ bị phá sản, quân Ngụy lâm vào thế suy yếu không đủ sức đương đầu với phong trào cách mạng miền Nam. Chính quyền Ngụy Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để cứu nguy, tháng 4/1956, Tổng thống Mỹ quyết định đưa quân Mỹ và chư hầu tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam. Với binh lực lớn và trang bị hiện đại, Mỹ tổ chức phản công chiến lược trong hai mùa khô (1965-1966 và 1966-1967), hướng trọng điểm là Đông Nam Bộ và Khu 5.

Trước yêu cầu cần có khối lượng lớn vũ khí để góp phần đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ trên chiến trường, ngoài việc tiếp nhận vũ khí trang bị chi viện từ miền Bắc, Quân giới Khu 5 còn tập trung sản xuất bộc phá, mìn, lựu đạn… Phòng Quân giới Khu 5 nghiên cứu thiết kế loại lựu đạn ghép mảnh và giao cho các xưởng Quân giới Bình Định, Bắc Tam Kỳ và Quảng Đà thực hiện. Vỏ lựu đạn được gò bằng tôn dày 0,3mm, gồm hai ống: ống ngoài có đường kính Φ50mm, ống trong có đường kính Φ30mm, cao 60mm; giữa hai lớp gắn các mảnh thép đường kính Φ6mm, dài 6mm. Nắp trên có cổ để lắp chày gỗ, nhồi 45g thuốc nổ TNT. Phát hỏa bằng bộ lửa nụ xùy do miền Bắc cung cấp. Ngay sau khi thử nghiệm thành công, tại Xưởng Quảng Đà, Phòng Quân giới hướng dẫn kỹ thuật để phổ biến cho các xưởng trong Quân khu sản xuất. Khi được cung cấp bộ lửa, các cơ sở Quân giới cấp huyện, xã tận dụng các loại phế liệu, như: vỏ đồ hộp, sắt tròn, sắt tấm cắt mảnh... để tự tổ chức sản xuất. Năm 1965, toàn Quân khu đã sản xuất được 21.800 quả lựu đạn ghép mảnh.

Lựu đạn ghép mảnh ra đời giải quyết được 90% nhu cầu lựu đạn của lực lượng vũ trang Khu 5, nhưng nguồn nguyên liệu như tôn lá, vỏ đồ hộp khan hiếm dần và cũng chỉ khai thác được ở các đô thị hay nơi gần căn cứ địch. Để khắc phục, sau Hội nghị Kỹ thuật Khu 5 lần thứ nhất (ngày 15/12/1966), Xưởng C37 bắt đầu nghiên cứu chế tạo vỏ lựu đạn bằng nguyên liệu cọc rào ấp chiến lược, do đồng chí Trần Nguyên đề xuất và thực hiện.

Cọc rào làm ấp chiến lược (bằng thép CT3 hình chữ L) được đưa về đập thẳng thành các thanh thép 120mm, dày 3mm. Sau đó, được cắt thành từng miếng kích thước 120mm x 80mm, dùng đục khía múi 12mm x 8mm với rãnh sâu 1,5mm. Hai mép dát thành hình mũi mác, cuốn tròn rồi hàn đồng; đáy lót tôn dày từ 0,3 đến 0,5mm, đặt thêm mảnh và nhồi 45g thuốc nổ TNT; lắp chày gỗ và bộ lửa như lựu đạn vỏ gang. Qua nhiều lần thử nghiệm, sản phẩm đạt kết quả tốt, số lượng mảnh từ 100 đến 120, sắc cạnh và phân bố đều; hình dạng, trọng lượng gọn nhẹ. Tháng 5/1967, Xưởng C37 sản xuất được 850 vỏ lựu đạn cọc rào cung cấp cho Sư đoàn Bộ binh 3 nhồi lắp thành loại lựu đạn gọn nhẹ, tiện sử dụng; đồng thời hướng dẫn Trạm Quân giới của Sư đoàn tự sản xuất.


Lựu đạn tự chế của Quân giới Việt Nam. Ảnh: TL

Việc dùng thép cọc rào sản xuất lựu đạn mở ra một hướng mới để giải quyết khó khăn về nguyên liệu, bảo đảm trong hoàn cảnh địch đánh phá ác liệt, các xưởng phải phân tán, cơ động vẫn có thể sản xuất được. Phòng Quân giới Quân khu 5 vẽ mẫu, soạn thảo hướng dẫn gửi cho các đơn vị. Vì vậy, sau một thời gian ngắn, các xưởng, trạm nhỏ ở địa phương đều tổ chức sản xuất được loại lựu đạn bằng nguyên liệu cọc rào. Từ năm 1967, lựu đạn sản xuất ở Quân khu hầu hết đều làm theo hai mẫu: lựu đạn bi và "lựu đạn cọc rào". Năm 1966, Quân giới Quân khu sản xuất được 32.720 quả; năm 1967, sản xuất được 72.418 quả; năm 1968, sản xuất được 157.425 quả...

Lựu đạn ghép mảnh có cấu tạo và quy trình sản xuất đơn giản, nguyên liệu dễ kiếm, gồm: thân (vỏ), thuốc nổ, ngòi nổ và cơ cấu an toàn. Lựu đạn có khối lượng từ 0,3-0,7kg, bán kính sát thương hàng chục mét, số lượng mảnh khi nổ lên tới hàng nghìn.

Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu tổ chức sản xuất tại chỗ cho lực lượng vũ trang miền Nam, tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có ở các địa phương, Cục Quân giới triển khai nghiên cứu thiết kế lựu đạn ghép mảnh. Tham gia nghiên cứu thiết kế, Phòng Kỹ thuật Cục Quân giới có các đồng chí: Hoàng Địch, Nguyễn Thế Bảo, Phan Thượng Trí; Nhà máy V115 (nay là Nhà máy Z115) có Phó Giám đốc kỹ thuật Phan Sỹ Thành, Trưởng phòng Kỹ thuật Vũ Hòa Thái. Sau nhiều lần thử nghiệm, Cục Quân giới đã kết luận hai loại lựu đạn (loại vỏ tôn có trọng lượng 500g, bán kính sát thương từ 10 đến 12m; loại vỏ giấy có trọng lượng 460g, các thông số khác như lựu đạn vỏ tôn, thời gian sử dụng ngắn hơn vì khả năng chống ẩm kém, nếu được cung cấp bộ lửa, các địa phương đều có thể tổ chức sản xuất tại chỗ.

Sau khi phê duyệt mẫu thiết kế, Cục Quân giới giao cho Nhà máy V115 phối hợp với Nhà máy V117 (nay là Nhà máy Z117) tổ chức sản xuất loạt lớn. Đến cuối năm 1967, hai nhà máy đã sản xuất được 34.000 quả loại vỏ tôn và 3.500 quả loại vỏ giấy. Năm 1968, Cục Quân giới đưa vào kế hoạch sản xuất 300.000 quả vỏ tôn. Toàn bộ số lựu đạn này đã được gửi vào chiến trường miền Nam. Khi sản xuất ổn định, Phòng Kỹ thuật Cục cùng với cán bộ kỹ thuật Nhà máy V115 biên soạn tài liệu thiết kế và tài liệu công nghệ hai loại lựu đạn ghép mảnh gửi vào chiến trường để Quân giới các đơn vị và địa phương tổ chức sản xuất tại chỗ.

Cuối năm 1967, ngành Quân giới khắc phục được khó khăn về đúc gang và thiếu gỗ làm cán chày, tạo điều kiện cho các xưởng Quân giới chiến trường duy trì khả năng sản xuất lựu đạn ghép mảnh, đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng trên chiến trường. Đầu năm 1968, Quân giới Miền tận dụng nguồn nhôm thu được từ các xe thiết giáp M-113 và bom na-pan chiến lợi phẩm, sản xuất mẫu lựu đạn ghép mảnh cán nhôm loại nhỏ. Lựu đạn có đường kính Φ40mm, trọng lượng từ 200 đến 250g, với 400 mảnh có đường kính Φ4mm, nhồi hỗn hợp thuốc nổ TNT và Hexozen, bán kính sát thương từ 4,5 đến 5m. Loại lựu đạn này có ưu điểm là gọn nhẹ, dễ bảo quản, mật độ mảnh được phân bố đều cả bốn phía, uy lực sát thương tốt. Sau khi tổ chức sản xuất thành công tại Xưởng Z1, Quân giới Miền phổ biến rộng rãi cho các xưởng Nam Bộ.

Các loại lựu đạn ghép mảnh do các xưởng Quân giới chế tạo, cùng với mìn, bộc phá… được bộ đội địa phương và du kích tích cực sử dụng, đánh nhiều trận vào căn cứ, trận địa địch, nhất là trong cuộc Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 làm thương vong nhiều quân địch, góp phần đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ trên chiến trường.

Đại tá NGÔ NHẬT DƯƠNG

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại