Ngày 12/4/1963, đoàn cán bộ, công nhân Quân giới, trong đó có kỹ sư Nguyễn Thanh Vọng vượt Trường Sơn vào miền Nam. Do hành quân giữa mùa mưa, quân số ốm nhiều, lại bị địch càn quét nên đến ngày 22/12/1963, người cuối cùng trong đoàn mới tới được chiến trường Nam Bộ.
Về công tác tại Bộ Chỉ huy Miền, kỹ sư Nguyễn Thanh Vọng được cử làm Tổ trưởng Tổ Kỹ thuật, Xưởng Quân giới Z26. Khi giao nhiệm vụ, đồng chí Lưu Dương, Trưởng ban Quân giới Miền, nêu rõ: “Tổ Kỹ thuật vừa làm công việc của Xưởng vừa làm nhiệm vụ của Ban Quân giới Miền”.
Trong những năm đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, để đánh bại các cuộc càn quét của quân đội Sài Gòn trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, yêu cầu về mìn rất lớn. Kỹ sư Nguyễn Thanh Vọng cùng kỹ sư Nguyễn Thuần Phong được giao nhiệm vụ thiết kế, chế tạo loại mìn phóng mảnh. Dựa vào tài liệu “Hướng dẫn thiết kế và gia công mìn phóng mảnh định hướng” do Trung tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam mang vào từ miền Bắc cuối năm 1963, sau một thời gian nghiên cứu chế tạo, quả mìn phóng mảnh đã ra đời. Tháng 2/1964, mìn phóng mảnh được Xưởng đưa đi thử nghiệm tại một đồn cũ của địch ở Bồ Túc, tỉnh Tây Ninh để xác định cự ly xuyên thép, cự ly sát thương bộ binh, cự ly an toàn, khả năng phá rào, tạo cửa mở… Qua một ngày kiểm tra, tuy mới thử nghiệm lần đầu nhưng kết quả đạt rất khả quan. Đồng chí Trường Sơn, cán bộ Bộ Tham mưu Miền vui mừng khẳng định: “Mìn nổ tác dụng như một tiểu đoàn bộ binh đồng loạt bắn súng trường, có khả năng tiêu diệt bộ binh ở cự ly trên 100m, đánh được xe cơ giới vỏ mỏng và tàu xuồng nhỏ; khi ghép từ 3 đến 5 quả mìn, có khả năng phá rào thép gai dày đặc, tạo cửa mở sâu hơn 30m”. Tuy nhiên, mìn còn có nhược điểm là bộ chân 4 càng nên không vững. Sau đó, kỹ sư Nguyễn Thanh Vọng thiết kế lại thành 3 càng, dễ chỉnh tầm, hướng, thế đứng vững và đặt tên là ĐH-10 (ĐH là định hướng, số 10 chỉ trọng lượng thực tế tính bằng kilôgam). Bản vẽ thiết kế chế tạo, quy trình sản xuất, hướng dẫn sử dụng mìn ĐH-10 được in và phổ biến đến các địa phương trên toàn Miền. Mìn ĐH-10 trở thành vũ khí lợi hại của lực lượng vũ trang trên chiến trường Nam Bộ. Ngoài ra, để đánh máy bay trực thăng bay thấp, mìn ĐH-10 được bố trí trên cây cao, hoặc đặt nằm ngửa hướng lên trời, gắn ngòi “mìn gạt”. Ở vùng sông nước, mìn ĐH-10 được cắm trên sào để đánh tàu, xuồng địch.
Mìn ĐH-10 do Quân giới Nam Bộ chế tạo. Ảnh: TL
Từ năm 1965, Mỹ đổ quân vào miền Nam thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Chúng tiến hành nhiều cuộc càn quét bằng cơ giới nên lực lượng vũ trang ta yêu cầu cần có khối lượng lớn loại mìn đánh xe. Đầu năm 1967, kỹ sư Nguyễn Thanh Vọng đã chủ trì thiết kế mìn đánh xe MC-7, có đường kính Φ300mm, cao từ 70 đến 100mm, lượng thuốc nổ là 8kg TNT, gắn ngòi tự tạo XC-7 (phía trên ngòi có gắn một thanh gỗ dài để tăng tiết diện tiếp xúc với xe, bảo đảm lực đè 150kg). Mìn được Xưởng Z26 chế thử có ưu điểm: Lượng thuốc nổ đủ mạnh để phá xe; mìn mỏng, thuận lợi cho việc gài; giữa quả mìn và ngòi không có ren mà có lỗ hình ô van nên tháo lắp nhanh chóng; chống ẩm tốt, bảo đảm an toàn. Trong năm 1967, Xưởng Z26 sản xuất hàng loạt mìn MC-7, góp phần quan trọng trong việc cung cấp vũ khí cho bộ đội đánh bại cuộc hành quân Junction City của địch trên địa bàn Đông Nam Bộ (22/2/1967- 15/4/1967). Từ đó, mìn MC-7 được sản xuất ở hầu hết các xưởng của Quân giới Miền.
Kỹ sư Nguyễn Thanh Vọng đã nghiên cứu chế tạo, cải tiến thành công nhiều loại vũ khí phù hợp với cách đánh và làm tăng sức mạnh chiến đấu của bộ đội ta trên chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, địch tăng cường xây dựng công sự, lập các căn cứ phòng thủ kiên cố. Vì vậy, bộ đội ta rất cần các loại đạn có sức công phá lớn để đánh địch trong các cứ điểm. Tháng 7/1968, Phòng Quân giới Miền nghiên cứu cải tiến 2 loại đạn tên lửa H-12 và ĐKB. Phương án được đề xuất là dùng đạn H-12, lắp một đầu đạn cỡ 206mm, chứa 15kg hỗn hợp thuốc nổ 40% TNT và 60% Hexozen; toàn bộ quả đạn nặng 38,4kg, được đặt tên là ĐB-12. Và trên cơ sở đạn ĐKB, lắp một đầu đạn cỡ 315mm, có trọng lượng 100kg, chứa 70kg hỗn hợp thuốc nổ TNT và Hexozen với tỷ lệ 4/6, gọi là ĐB-2. Ngày 27/7/1968, cả hai loại đạn được chế thử xong và đưa vào thử nghiệm. Kết quả bắn 2 quả ĐB-12 bay xa trên 2.300m và 1 quả ĐB-2 bay xa trên 1.700m nhưng đều không nổ. Sau khi xác định được nguyên nhân do ngòi đạn cối 82mm lắp vào đầu đạn không đủ quán tính để mở chốt an toàn, nhóm nghiên cứu do kỹ sư Nguyễn Thanh Vọng chủ trì tiến hành thiết kế lại cỡ đạn nhỏ hơn, lắp ngòi đạn cối 60mm chạm nổ và ngòi đạn H-12 tháo bỏ quán tính ly tâm. Ngày 31/7/1968, cuộc thử nghiệm lần thứ hai đã đạt kết quả như mong muốn. Tiếp đó, Xưởng B109 sản xuất loạt đầu 2 loại đạn cải tiến cung cấp cho bộ đội đánh địch.
Đầu năm 1969, Phòng Quân giới Miền được giao nhiệm vụ thiết kế cải tiến tên lửa H-12 mang đầu đạn lõm. Kỹ sư Nguyễn Thanh Vọng chịu trách nhiệm chủ trì nhiệm vụ này. Khác với đạn ĐB, đầu đạn lõm dùng để bắn thẳng đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật rất cao, phải chính xác về trọng lượng, các chi tiết cần độ đồng tâm, phần nón lót cần có tiêu cự bảo đảm độ xuyên tốt... Sau một thời gian ngắn tính toán, bản thiết kế quả đạn được xây dựng với tên gọi là đạn B-20 có đường kính Φ200mm, chiều dài 1.156mm, lượng thuốc nổ 7kg, trọng lượng toàn bộ 30kg; dàn phóng là máng trượt, có 3 chân cao 0,6m. Cuối tháng 4/1969, đạn B-20 được đưa đi thử nghiệm, bắn trúng đích, phá hủy hoàn toàn mục tiêu là hàng rào dài 12m, cao 2m làm bằng các cột gỗ có đường kính Φ200mm được chôn chặt xuống đất. Tuy nhiên, loạt đạn B-20 sản xuất đầu tiên, lắp ngòi tên lửa H-12 cải tiến còn bộc lộ nhiều nhược điểm. Sau đó đạn được lắp ngòi đáy và bổ sung hoàn chỉnh. Tháng 5/1969, tại Đoàn Pháo binh Miền, đạn B-20 được thử nghiệm tổng hợp bằng cách bắn vào nhiều loại mục tiêu khác nhau, xác nhận độ xuyên thép đạt 300mm, xuyên bê tông đạt 650mm, có sức công phá và sát thương mạnh. Đến ngày 14/6/1969, Xưởng B109 sản xuất được 250 quả đạn B-20 và 100 bệ phóng. Sau đó, đạn B-20 được sản xuất ở nhiều xưởng của Miền. Trong năm 1969, 79 quả đạn B-20 đã được bộ đội sử dụng bắn vào Sở Chỉ huy quân Mỹ ở Suối Dây (huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh), tiêu diệt 450 tên địch, phá hủy 4 khẩu pháo.
Có thể nói, với việc nghiên cứu chế tạo, cải tiến thành công nhiều loại vũ khí phù hợp với cách đánh và điều kiện chiến trường Nam Bộ trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, kỹ sư Nguyễn Thanh Vọng đã có những đóng góp rất to lớn, góp phần làm tăng sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam trên chiến trường; thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, sự sáng tạo của cán bộ, kỹ sư và công nhân ngành Quân giới, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
NGÔ NHẬT DƯƠNG