Phát triển cơ sở Quân giới sau phong trào Đồng khởi

1/3/2024 9:57:58 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 129

CNQP&KT - Sau phong trào Đồng khởi 1960, các cơ sở Quân giới miền Nam được xây dựng rộng khắp, đáp ứng kịp thời công tác sửa chữa, sản xuất vũ khí, khí tài cung cấp cho lực lượng vũ trang đánh địch trên các chiến trường.

Từ sau phong trào Đồng khởi, cách mạng miền Nam đã chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công địch. Tháng 1/1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định đẩy mạnh đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị. Thực hiện chủ trương trên, lực lượng vũ trang miền Nam phát triển nhanh chóng, yêu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) ngày càng cấp thiết. Do đó, các cơ sở Quân giới ở miền Nam được củng cố và hoạt động rất hiệu quả. Đầu năm 1961, đoàn cán bộ, công nhân kỹ thuật Quân giới miền Bắc gồm 30 đồng chí được điều động vào công tác tại Ban Quân sự Miền và Khu 8, Khu 9 để tổ chức các cơ sở Quân giới. Trên cơ sở lực lượng tại chỗ và lực lượng cán bộ được tăng cường từ miền Bắc vào, đầu năm 1962, Trung ương Cục quyết định thành lập Phòng Hậu cần trực thuộc Ban Quân sự Miền. Phòng Hậu cần được tổ chức biên chế các bộ phận: quân nhu, quân giới, quân y. Sau đó, Bộ phận Quân giới được phát triển và đổi tên là Ban Quân giới (phiên hiệu là B20). Lực lượng chính của Ban Quân giới là số cán bộ vừa từ miền Bắc vào, các cơ sở Quân giới, công trường… của lực lượng vũ trang và địa phương. Ban Quân giới Miền ra đời đã khẳng định bước phát triển của hệ thống tổ chức Quân giới miền Nam, kịp thời phục vụ cho cuộc đấu tranh của quân và dân ta trên chiến trường.

Trước thủ đoạn lập "ấp chiến lược", "tát nước bắt cá" của địch, Trung ương Cục và Ban Quân sự Miền xác định: "Hậu cần chiến trường phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, ra sức tạo nguồn tại chỗ, đồng thời phải tiếp nhận tốt sự chi viện về sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc". Thực hiện chủ trương của trên, một mặt, Ban Quân giới Miền khẩn trương ổn định tổ chức, xây dựng nền nếp kế hoạch công tác ở cơ quan; mặt khác, tăng cường cán bộ xuống cơ sở chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động của các xưởng, trọng điểm là Khu A, Khu B. Ở Khu B (Chiến khu Dương Minh Châu) từ xưởng Quân giới đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Đông, sau nhiều lần thay đổi tổ chức lực lượng và phiên hiệu, đầu năm 1961, Xưởng mang phiện hiệu B55. Để đáp ứng yêu cầu trang bị vũ khí của bộ đội chủ lực Miền và lực lượng vũ trang các địa phương khu vực căn cứ, ngoài việc sửa chữa, sản xuất một số vũ khí thông dụng, Xưởng B55 còn tổ chức đúc gang, sản xuất mìn lõm... Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn của chiến trường, nhất là về nguyên vật liệu, nhưng với tinh thần tích cực, chủ động, tự lực cánh sinh, năm 1962, B55 đã sản xuất được 7 mặt hàng quan trọng, gồm: 292 quả Badômin, 127 mìn xe, 105 bộc phá rào, 1.120 thủ pháo, 535 mìn bộ binh, 5.299 quả lựu đạn và 162 súng tự tạo, cung cấp cho các lực lượng vũ trang tác chiến trên chiến trường.


Quân giới Nam Bộ khai thác vật tư nguyên liệu sản xuất vũ khí. Ảnh: TL

Ở Khu A (Chiến khu Đ), năm 1961, một bộ phận cán bộ, công nhân Quân giới B55 được giao nhiệm vụ mang theo một số máy móc, phương tiện về Khu A thành lập xưởng Quân giới, lấy phiên hiệu là A10. Tháng 10/1962, Xưởng đổi phiên hiệu là Z24. Nhiệm vụ của Z24 là nghiên cứu sản xuất một số vũ khí, như: thủ pháo, lựu đạn, bộc phá phá rào… phục vụ bộ đội.

Tiếp đến, ngày 5/12/1960, Hậu cần Quân khu Sài Gòn - Gia Định được thành lập, trong đó có Xưởng Quân giới J11. Xưởng có nhiệm vụ nghiên cứu sửa chữa súng bị hư hỏng do các đơn vị gửi về; nhồi lắp lại bộc phá; phục hồi lựu đạn...

Trong điều kiện khó khăn thiếu thốn của chiến trường, Xưởng B55 vẫn sản xuất được 7 mặt hàng quan trọng, gồm: 292 quả Badômin, 127 mìn xe, 105 bộc phá rào, 1.120 thủ pháo, 535 mìn bộ binh, 5.299 quả lựu đạn và 162 súng tự tạo, cung cấp cho các lực lượng vũ trang tác chiến trên các chiến trường.

Cùng với sự trưởng thành của cơ quan, cơ sở Quân giới Miền, các cơ sở Quân giới địa phương cũng có sự phát triển nhanh chóng. Là một trong những địa phương có phong trào đấu tranh vũ trang mạnh, tỉnh Tây Ninh sớm tổ chức được công trường Quân giới. Khi mới thành lập, công trường Quân giới Tây Ninh chỉ sửa chữa, nhồi lắp đạn, thủ pháo, sau đó, Xưởng nghiên cứu và sản xuất được hàng loạt thủ pháo, đạn Bazooka sử dụng đánh hầm ngầm và lô cốt của địch; chế tạo được máy dập kíp, dập hạt nổ, dập vỏ đạn bán tự động, máy cuốn lò xo lựu đạn; súng côn 7,9mm và mìn chống tăng. Tại tỉnh Phước Long và Bình Dương cũng thành lập được xưởng Quân giới chuyên sản xuất súng "ngựa trời"; nhồi lắp đạn, bộc phá; sửa chữa súng trường Mas, súng kíp, thủ pháo, bộc phá phá rào, pêta sào, bộc phá khối, mìn… Trên địa bàn Long An, năm 1961, Ban quân sự tỉnh tổ chức được hai xưởng Quân giới có nhiệm vụ sản xuất thủy lôi dùng để đánh tàu xuồng của địch trên các kênh, rạch; chế tạo mìn, súng "ngựa trời" và cải biên đạn pháo 105mm thu được của địch.

Ở miền Tây Nam Bộ, cùng với sự trưởng thành của lực lượng vũ trang, các cơ sở Quân giới cũng có bước phát triển mạnh. Ngoài hai xưởng Quân giới Khu 9 (T3) và Cà Mau (Ul), hầu hết các tỉnh đều có xưởng Quân giới. Lực lượng chủ yếu là cán bộ, công nhân Quân giới trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và một số cán bộ được quân khu đào tạo. Tháng 3/1962, địch đánh sâu vào vùng căn cứ U Minh Thượng. Để tránh thiệt hại về người và trang - thiết bị, Xưởng Quân giới Khu 9 chuyển về vùng Cây Tàu (thuộc Duyên Hải, Cà Mau) để sản xuất pêta các loại, thủy lôi, thủ pháo, địa lôi, Bazooka, vỏ đạn, đầu đạn, nhồi lắp đạn, mìn tự động, lựu đạn, thủ pháo, vũ khí thô sơ... trang bị cho lực lượng vũ trang miền Tây đánh địch.

Cũng trong thời gian này, mặc dù Khu 5 là chiến trường rất thuận lợi trong tiếp nhận nguồn vũ khí chi viện qua tuyến vận tải quân sự 559, nhưng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 vẫn quyết định thành lập Ban Quân giới để chủ động chế tạo vũ khí đánh địch.

Cũng như ở Nam Bộ và vùng đồng bằng Trung Bộ, để phục vụ các lực lượng vũ trang đánh địch, các tỉnh ở Tây Nguyên cũng đều tổ chức tiểu ban Quân giới và trạm Quân giới trực thuộc. Nhiệm vụ chủ yếu của trạm Quân giới các tỉnh Tây Nguyên thời gian này là sửa chữa vũ khí, sản xuất lựu đạn, thủ pháo, bộc phá, quân cụ; đồng thời, động viên toàn dân phát huy truyền thống của nhân dân Tây Nguyên tự tạo vũ khí đánh giặc, bảo vệ buôn làng.

Như vậy, cùng với sự hình thành và phát triển của lực lượng vũ trang giải phóng, trên khắp chiến trường miền Nam, các cơ sở Quân giới đã được xây dựng rộng khắp, có hệ thống. Tuy quy mô khác nhau, nhưng những người lính thợ Quân giới luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sửa chữa, sản xuất vũ khí, cung cấp kịp thời cho lực lượng vũ trang đánh địch giành thắng lợi.

Thượng tá, TS. LÊ QUÝ THI*

TS. BÙI THỊ HỒNG THÚY**

*Viện Lịch sử quân sự, Bộ Tổng Tham mưu.

** Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại