Quân giới miền Nam sau Hiệp định Paris

7/22/2024 10:53:16 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 109

CNQP&KT - Ngay sau Hiệp định Paris được ký kết ngày 27/1/1973, ngành hậu cần, kỹ thuật nói chung, Quân giới Miền nói riêng, đã nhanh chóng điều chỉnh tổ chức, thế bố trí, phương thức hoạt động để đảm bảo vũ khí, khí tài phục vụ lực lượng vũ trang đánh cho “ngụy nhào”, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc.

Thời điểm đó, Tổng cục Hậu cần tổ chức đoàn cán bộ do Chủ nhiệm Tổng cục Đinh Đức Thiện dẫn đầu vào miền Nam nắm tình hình và chuẩn bị cho công tác bảo đảm hậu cần, vũ khí, kỹ thuật trên chiến trường. Tham gia đoàn công tác có đồng chí Phạm Như Vưu, Cục trưởng Cục Quân giới. Đoàn công tác đã trực tiếp đến kiểm tra các Phòng Quân giới Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ, Sài Gòn - Gia Định về tổ chức lực lượng, năng lực sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang - thiết bị, vật tư...

Tiếp đó, ngày 4/2/1973, Cục Quân giới đã điều động các đại đội sửa chữa vào chiến trường miền Nam. Đội sửa chữa X1 với quân số 62 người, cùng 8 xe ô tô lên đường vào chiến trường Khu 5. Ngày 27/2/1973, Đội sửa chữa X2, gồm 60 người được trang bị xe công trình, máy móc, dụng cụ sửa chữa pháo và máy phát điện vào chiến trường Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ. Khi hành quân đến căn cứ Cầu Trắng (Lộc Ninh, Bình Long), sáp nhập với một bộ phận Xưởng Z28 thành Xưởng sửa chữa OX1. Xuất phát cùng ngày với đội sửa chữa X2 còn có Đội sửa chữa X3 gồm 23 người, được trang bị 2 ô tô vào chiến trường Tây Nguyên.

Từ ngày 31/7/1973 đến ngày 2/8/1973, Đảng ủy Tổng cục Hậu cần họp đánh giá tình hình hoạt động và khả năng thực tế của hệ thống trạm, xưởng Quân giới trên chiến trường miền Nam. Hội nghị thống nhất điều chỉnh lại nhiệm vụ của Quân giới miền Nam theo hướng tăng cường cho công tác sửa chữa vũ khí, trong khâu sản xuất chỉ tập trung vào một số loại vũ khí cơ bản như lựu đạn, mìn, thủ pháo cho bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trên tinh thần chỉ đạo của Tổng cục Hậu cần, Cục Quân giới đã lập kế hoạch củng cố Quân giới chiến trường theo hướng nâng cao năng lực sửa chữa bằng việc duy trì, cung cấp trang - thiết bị, dụng cụ sửa chữa và tổ chức lại các trạm, xưởng hiện có.


Các chiến sĩ Sư đoàn 7 sử dụng giàn phóng ĐKB cải tiến đánh địch trên sông Lòng Tàu - Sài Gòn (năm 1972).                          Ảnh: TL

Cùng thời gian này, theo chỉ thị của Bộ Chỉ huy Miền, các xưởng Quân giới chủ chốt của các tỉnh miền Đông Nam Bộ còn nằm trên đất bạn hoặc vùng giáp biên được sự giúp đỡ của Trung đoàn Vận tải 50 nhanh chóng vận chuyển máy móc, dụng cụ, thiết bị về vùng giải phóng Bình - Phước Long đảm bảo an toàn.

 Sau Hiệp định Paris, mặc dù ta đã có vùng giải phóng rộng lớn nhưng địch vẫn ra sức phá hoại, tình hình chiến trường ngày càng căng thẳng, chiến sự nổ ra ác liệt trên  những vùng tranh chấp. Trước tình hình đó, hệ thống các xưởng Quân giới miền Nam phải tổ chức thành 2 hệ xưởng: Xưởng Quân giới hậu phương chuyên sản xuất các loại vũ khí, quân cụ; Xưởng Quân giới phía trước làm nhiệm vụ sửa chữa vũ khí, khí tài. Hệ xưởng Quân giới phía trước được trang bị gọn nhẹ, có khả năng cơ động nhanh, sửa chữa các loại vũ khí, khí tài phục vụ kịp thời cho chiến trường. Để hiện thực hóa chủ trương đó, Phòng Quân giới Miền đã chi viện phần lớn cán bộ, công nhân và thiết bị, máy móc của Xưởng Z28 (Đoàn 210) cho Quân khu 7; Xưởng Đoàn 200 cho Quân khu 9; một bộ phận của Xưởng Z28 bổ sung cho Xưởng OX1 đủ năng lực sửa chữa súng pháo. Đến giữa năm 1973, hệ thống xưởng sản xuất, sửa chữa của miền đã hình thành 2 tuyến: Tuyến hậu phương gồm các xưởng sản xuất vũ khí Z1, Z24 và các xưởng sửa chữa OX1, OX2; tuyến trước có Xưởng Z243 (sau này là BX12), Xưởng Z26 thuộc Đoàn 230, Xưởng Z29 thuộc Đoàn 220.

Quân giới miền Nam đã từng bước nâng cao năng lực sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, đáp ứng kịp thời yêu cầu tác chiến của các lực lượng vũ trang. Riêng quý 3 năm 1973, các xưởng Quân giới Miền đã sản xuất được 72 tấn vũ khí cơ bản, sửa chữa được 101 tấn vũ khí các loại…

Cuối năm 1973, trước sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng vũ trang 3 thứ quân, Cục Quân giới đề xuất phương án tổ chức lại Quân giới các chiến trường theo yêu cầu mới, tiếp tục duy trì ba khu vực: quân khu Miền, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Theo đó, Khu 5 tập trung xây dựng hoàn chỉnh Xưởng C36 và C38 để có thể sửa chữa hỗn hợp các loại súng pháo ở mức trung đại tu với công suất hằng năm đạt 120 khẩu pháo cao xạ, 55 khẩu pháo mặt đất, 3.000 súng bộ binh, 10 bộ radar, máy chỉ huy, 600 khí tài quang học. Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ, nâng cao năng lực 2 xưởng OX1 và OX2, bảo đảm hằng năm có thể sửa chữa được khoảng 5.300 khẩu súng bộ binh, 200 khẩu pháo cao xạ, 90 khẩu pháo mặt đất, 16 bộ radar, máy chỉ huy, trên 1.000 khí tài quang học; thu hẹp các xưởng còn lại, chỉ giữ lại 2 xưởng sản xuất lựu đạn cần, mìn MĐH và một xưởng sản xuất quân cụ. Ở miền Đông Nam Bộ, Quân khu 7 khôi phục lại các cơ sở sản xuất, sửa chữa vũ khí. Mặt trận 4, trên cơ sở trạm sửa chữa T31 và T41, tổ chức thành một xưởng sửa chữa lớn có khả năng tự sản xuất bộ phận thay thế súng pháo. Nhờ đó, các trạm, xưởng Quân giới chiến trường đã sửa chữa một lượng lớn vũ khí gồm: trên 75.000 súng bộ binh, 300 khẩu trung liên, trên 1.000 khẩu cối và ĐKZ, 600 khẩu pháo các loại trang bị cho bộ đội tác chiến.


Phóng thử đạn SS cải tiến của Xưởng 201 (năm 1972).         Ảnh: TL

Ngày 25/12/1973, Phòng Quân giới Miền tổ chức hội nghị nhằm rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ sau gần một năm hoạt động. Hội nghị đã đánh giá những mặt hạn chế trong tổ chức lại các xưởng sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài như: năng suất lao động còn thấp, đội ngũ thợ có tay nghề cao còn thiếu, tổ chức bảo đảm kỹ thuật sửa chữa vũ khí chưa chặt chẽ, chưa đủ khả năng sửa chữa kịp thời số lượng vũ khí bị hư hỏng ở các đơn vị. Đó là những bài học kinh nghiệm giúp Quân giới Miền tiếp tục củng cố và xây dựng hệ thống các xưởng, trạm ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ tác chiến trên chiến trường.

Sau thời gian củng cố hệ thống trạm xưởng và chuyển hướng hoạt động phù hợp với tổ chức chiến trường, với sự chi viện to lớn của hậu phương lớn miền Bắc, Quân giới miền Nam đã từng bước nâng cao năng lực sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, đáp ứng kịp thời yêu cầu tác chiến của các lực lượng vũ trang. Riêng quý 3 năm 1973, các xưởng Quân giới Miền đã sản xuất được 72 tấn vũ khí cơ bản, sửa chữa được 101 tấn vũ khí các loại (gồm 348 khẩu súng, trong đó có 17 pháo 105mm, 3 pháo 122mm). Bên cạnh đó, Phòng Quân giới Miền còn chỉ đạo các xưởng nghiên cứu cải tiến một số loại vũ khí trong biên chế nhằm tăng cường hỏa lực cho bộ đội tham gia các chiến dịch. Trong đó, đã nghiên cứu thành công đề tài lắp thêm súng đại liên K57 lên xe bọc thép K63 và ĐKZ75 lên xe M113 đưa vào chiến đấu trong Chiến dịch Bù Bông - Tuy Đức, lập công lớn, góp phần mở thông hành lang vận chuyển từ Khu 5 vào Lộc Ninh. Tiếp đến, Xưởng Z1 và Z24, dưới sự hướng dẫn của Phòng Quân giới Miền đã tập trung sản xuất mìn lõm cỡ lớn và  bộc phá rào phục vụ bộ đội tập kích vào các cứ điểm phòng ngự kiên cố của địch. Mìn lõm cỡ lớn được Phòng Quân giới Miền thiết kế theo mẫu của Cục Quân giới, có trọng lượng 10kg, nhồi thuốc nổ hỗn hợp và lắp ngòi nổ điều khiển bằng điện. Mìn lõm cỡ lớn mang ký hiệu MCS10 (mìn công sự 10kg), được bộ đội sử dụng đánh các mục tiêu hầm ngầm, lô cốt rất hiệu quả. Các xưởng Quân giới Quân khu T7, T3, T4 (miền Đông, miền Tây, Sài Gòn - Gia Định) ngoài nhiệm vụ chủ yếu là sửa chữa nhẹ và sản xuất các loại vũ khí cơ bản phục vụ cho lực lượng vũ trang địa phương, còn tích cực đẩy mạnh sản xuất, cải tiến một số vũ khí phục vụ cho nhu cầu tác chiến quy mô lớn, như: HB250, HB350, các loại bệ phóng đạn cỡ lớn. Tại miền Tây Nam Bộ, Xưởng 201 (Quân khu 9) chế tạo được một số loại vũ khí có uy lực mạnh, đặc biệt là đã tự lực sản xuất thành công đạn B40 bằng linh kiện tự chế.

Có thể nói, sau Hiệp định Paris, sự phát triển nhanh chóng về lượng và chất của các lực lượng vũ trang miền Nam dẫn đến sự thay đổi quan trọng về quy mô và hình thức tác chiến. Do đó, việc yêu cầu bảo đảm vũ khí, nhất là các loại vũ khí có hỏa lực mạnh, phục vụ những trận đánh lớn là hết sức cấp bách. Quân giới Miền đã phát huy truyền thống tự lực, tự cường; hệ thống xưởng Quân giới được tổ chức chặt chẽ, có khả năng cơ động, sửa chữa kịp thời vũ khí, khí tài, phục vụ lực lượng vũ trang trong các chiến dịch tác chiến quy mô lớn trên chiến trường.

Thượng tá, TS. LÊ QUÝ THI*

TS. NGUYỄN THỊ HẢI YẾN**

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, Viện Vũ khí: Lịch sử Viện Vũ khí (1947-2017), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2017.

2. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật, Lịch sử ngành Kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 2 (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.

3. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và Kinh tế, Lịch sử Quân giới Việt Nam (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.

 

* Viện Lịch sử quân sự, Bộ Tổng Tham mưu.

** Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại