Từ cuộc đấu trí trên lòng chảo Điện Biên đến ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ

5/2/2024 9:03:13 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 77

CNQP&KT - Trong lịch sử quân sự thế giới, phần lớn việc kết thúc một cuộc chiến tranh đều phải chịu sự tác động của các yếu tố, như: so sánh tương quan thế và lực trên chiến trường; tính toán chiến lược của các bên tham chiến; nhân tố quốc tế... Tuy nhiên, việc kết thúc chiến tranh Việt Nam (1945-1954) còn có những đặc điểm rất riêng, rất khác so với nhiều cuộc chiến tranh trên thế giới.

Bước vào năm 1953, sau gần 7 năm với những nỗ lực cao nhất, cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp ngày càng lún sâu vào khủng hoảng. Tháng 5/1953, Chính phủ Pháp buộc phải cử viên tướng "4 sao" H.Navarre làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Navarre sang Đông Dương với sứ mệnh cố gắng đạt được một chiến thắng quân sự để "tìm kiếm một lối thoát danh dự" cho nước Pháp. Ngày 24/7/1953, kế hoạch quân sự mang tên "Navarre", dự kiến thực hiện trong 18 tháng, chia làm 2 bước, được Hội đồng Quốc phòng Pháp phê duyệt. Bước 1: Thu Đông 1953 và Xuân 1954, tránh giao chiến lớn với Việt Minh trên chiến trường miền Bắc; tiến công bình định miền Nam, miền Trung Đông Dương, xóa bỏ vùng tự do Liên khu 5. Bước 2: Đánh lớn trên chiến trường miền Bắc để chứng tỏ Pháp có thừa khả năng giải quyết vấn đề quân sự, buộc Việt Minh phải ngồi vào bàn thương lượng. Đây được coi là nỗ lực cuối cùng của Pháp và Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Họ tin rằng với Kế hoạch Navarre, thắng lợi quân sự của người Pháp đã ở trong tầm tay.

Trong khi đó, tại căn cứ địa Việt Bắc, từ trung tuần tháng 1/1953, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 họp bàn về phương hướng chiến lược trong Đông Xuân 1953-1954 đã xác định: "Tạm thời tránh chỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu  để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực của chúng, mở rộng vùng tự do"1.


Bộ đội ta vượt qua cầu Mường Thanh, tấn công vào Sở chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, chiều 7/5/1954.  Ảnh: TL

Tháng 9/1953, Bộ Chính trị thông qua Đề án tác chiến của Tổng Quân ủy, trong đó xác định cụ thể hướng tiến công chiến lược trong Thu Đông 1953-1954 sẽ là Tây Bắc. Điều khá lý thú là trong Kế hoạch Navarre cũng như Đề án tác chiến của Tổng Quân ủy đều không có Điện Biên Phủ. Song đêm 20/11/1953, phát hiện Đại đoàn 316 của Việt Minh tiến quân lên Tây Bắc, Pháp vội vàng cho 6 tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Navarre cho rằng "chỉ có chiếm đóng Điện Biên Phủ mới bảo vệ được Lai Châu và cả địa bàn chiến lược Thượng Lào". Chỉ trong thời gian ngắn, Pháp đã biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh với 3 phân khu, hình thành 8 cụm cứ điểm với 49 cứ điểm, tập trung khoảng 16.000 quân (7/10 tổng số lính dù ở Đông Dương).

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Việt Nam đã tập trung gần 40.000 quân; huy động 261.453 dân công, 20.991 xe đạp thồ, đưa ra mặt trận hơn 20.000 tấn lương thực, thực phẩm các loại.

Việc quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ không làm cho cơ quan chỉ đạo chiến lược của ta lo lắng, hoang mang mà cho rằng đây là "cơ hội lớn" để thực hiện những mục tiêu chiến lược trong Đông Xuân 1953-1954. Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp khẳng định, việc quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ cơ bản là có lợi cho ta. Ngày 6/12/1953, hội nghị Bộ Chính trị tại Tỉn Keo (Định Hóa, Thái Nguyên) quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ mang mật danh "Chiến dịch Trần Đình"; thành lập Bộ chỉ huy Chiến dịch do Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy. Như vậy, Điện Biên Phủ từ chỗ không được đề cập trong kế hoạch quân sự của cả hai bên đã trở thành "điểm hẹn lịch sử". Điều khá lý thú là cả hai bên đều sợ đối phương bỏ cuộc chơi "ván bài Điện Biên Phủ". Khi giao nhiệm vụ cho Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, đây là một trận đánh rất quan trọng, có ý nghĩa về chính trị, quân sự và ngoại giao nên "chắc thắng thì đánh, không chắc thắng thì không đánh!".

Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã biến quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành hiện thực. Với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", hậu phương vùng tự do Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, Liên khu V, căn cứ du kích ở Bắc Bộ... đã tập trung sức người, sức của cho mặt trận Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch này, Việt Nam đã tập trung gần 40.000 quân; huy động 261.453 dân công, 20.991 xe đạp thồ, đưa ra mặt trận hơn 20.000 tấn lương thực, thực phẩm các loại2. Bằng cuộc tiến quân lên Tây Bắc, Việt Minh đã buộc Pháp phải vội vã ném những đơn vị tinh nhuệ nhất xuống Điện Biên Phủ, để rồi bị giam chân và cô lập trong một lòng chảo mà địa hình và thời tiết có nhiều bất lợi. Việt Minh đã chủ động tạo ra thời cơ và biết chớp lấy thời cơ, buộc quân Pháp phải chấp nhận một trận quyết chiến chiến lược sớm hơn gần một năm so với dự định. "Bộ thống soái" của Việt Nam không chỉ giữ chân một lực lượng lớn quân tinh nhuệ của Pháp ở Điện Biên Phủ để tiêu diệt, mà còn kịp thời chỉ đạo các chiến trường trong cả nước đẩy mạnh hoạt động phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ; giải quyết tốt vấn đề bảo đảm hậu cần cho chiến dịch lớn ở xa hậu phương.


Quang cảnh ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ. Ảnh: TL

Không chỉ thành công về chiến lược mà Chiến dịch Điện Biên Phủ còn cho thấy nhiều nét đặc sắc về chỉ đạo chiến dịch. Việt Minh đã không chấp nhận tổng giao chiến trong khoảng thời gian ngắn, dự kiến kéo dài trong 3 đêm, 2 ngày, mà đã kịp thời thay đổi phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc" - một quyết định mà sau này Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cho là "khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy" của ông. Chiến dịch Điện Biên Phủ đã trải qua 3 đợt tiến công kéo dài 56 ngày đêm. Với chiến thuật "vây lấn", bộ đội đã bao vây, cô lập và lần lượt tiêu diệt từng cụm cứ điểm, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Dưới tài chỉ huy quân sự xuất chúng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sự lãnh đạo tài trí của các cơ quan chiến lược, sức mạnh đại đoàn kết của cả dân tộc, quân và dân Việt Nam đã làm nên một chiến thắng "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".

Với Chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh ngoại giao trên bàn đàm phán. Một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội nghị Giơ-ne-vơ bàn về vấn đề Đông Dương chính thức khai mạc. Như vậy, phải sau "sự kiện Điện Biên Phủ" thì cơ hội cho một diễn đàn quốc tế về vấn đề chấm dứt chiến tranh Đông Dương mới thực sự đến, cho dù ngay từ tháng 11/1953, trả lời phỏng vấn của Báo Expreesen (Thụy Điển), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ thiện chí của ta sẵn sàng đàm phán để tìm kiếm giải pháp hòa bình trên cơ sở Pháp phải tôn trọng và công nhận độc lập, chủ quyền của Việt Nam.   

Với Chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh ngoại giao trên bàn đàm phán.

Việt Nam đến dự Hội nghị Giơ-ne-vơ trong tư thế của người chiến thắng. Trải qua 75 ngày đêm với 31 phiên họp toàn thể, Hội nghị kết thúc với sự ra đời Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định Giơ-ne-vơ phản ánh xu thế chung của các nước lớn trong bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ, nhưng chưa phản ánh đầy đủ những thắng lợi của nhân dân Việt Nam trên chiến trường. Rất nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến vận mệnh của dân tộc Việt Nam đã được các nước lớn bàn luận và giải quyết trực tiếp với Pháp, trong đó đáng chú ý là vấn đề phân chia giới tuyến và thời hạn tổng tuyển cử... Nhưng một điều cực kỳ quan trọng là Hiệp định Giơ-ne-vơ đã buộc thực dân Pháp phải kết thúc chiến tranh, công nhận quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Dẫu đất nước còn bị chia cắt nhưng chúng ta đã có được một miền Bắc giải phóng, làm cơ sở để xây dựng thành hậu phương chiến lược lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau đó.

Lịch sử không có "nếu như", song nếu không có chiến thắng Điện Biên Phủ và những thắng lợi quân sự khác trên chiến trường thì khó mà có được những kết quả trên bàn đàm phán Giơ-ne-vơ. Đúng như Đảng ta đã khẳng định: "Đạt được Hiệp định nói trên là một thắng lợi vĩ đại của nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam đoàn kết nhất trí, anh dũng chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và của Đảng. Đó là kết quả của 9 năm kháng chiến của đồng bào toàn quốc từ Nam ra Bắc, ở vùng tự do cũng như vùng tạm chiếm, của toàn thể Quân đội, bao gồm quân chính quy, bộ đội địa phương, dân quân du kích và của cán bộ, nhân viên các ngành dân chính Đảng... Thắng lợi của Việt Nam Dân chủ cộng hòa cũng chính là thất bại của chủ nghĩa thực dân xâm lược muốn nô dịch nhân dân Đông Dương, thất bại của đế quốc Mỹ đang âm mưu biến Đông Dương thành thuộc địa và căn cứ chiến lược của Mỹ, thất bại của bọn tay sai đế quốc Mỹ và thực dân hiếu chiến Pháp. Với thắng lợi này, cách mạng Việt Nam cũng như sự phát triển của dân tộc Việt Nam đã bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ ra sức phấn đấu để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc".3

Đại tá, PGS, TS. TRẦN NGỌC LONG

Nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam     

TÀI LIỆU THAM KHẢO:                   

1. Văn kiện Đảng toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia. H. T.4, tr.130.

2. Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học. Nxb Chính trị quốc gia. H.1996, tr.202.

3. Văn kiện Đảng toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia.H.2001. T.15, tr.233.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại