Bàn về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

7/18/2019 10:06:10 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 32

CNQP&KT - Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (DN) là phương thức mà các DN thường áp dụng như một chiến lược nhằm tìm kiếm lợi nhuận dài hạn, được thể hiện qua các mặt: Bảo vệ môi trường; đóng góp cho cộng đồng thông qua công tác xã hội, hoạt động thiện nguyện; thực hiện tốt trách nhiệm với nhà cung cấp; bảo đảm an toàn và lợi ích cho người tiêu dùng, cổ đông và người lao động trong DN.

Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, để DN phát triển một cách bền vững thì vấn đề bảo vệ môi trường phải được đặt lên hàng đầu, bởi lẽ môi trường sống tốt đẹp, an toàn là nhu cầu đầu tiên và quan trọng nhất của con người. Muốn sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, việc đầu tiên là DN cần đảm bảo hoạt động của mình không gây tác hại đối với môi trường sinh thái, quá trình sản xuất phải thân thiện với môi trường. Đồng thời, trách nhiệm xã hội của DN còn là sự cam kết về chất lượng sản phẩm, tính trung thực trong quảng bá sản phẩm, cũng như bảo đảm an toàn cho người sử dụng. Thực tế, đã có nhiều DN vượt qua “bờ vực” phá sản nhờ lòng tin và sự chia sẻ của cộng đồng người tiêu dùng. Tuy nhiên, việc tuân thủ những cam kết về trách nhiệm xã hội của DN hiện nay chưa được quan tâm đúng mức. Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, trong các bản báo cáo tài chính; không bảo đảm an toàn lao động; sản xuất, kinh doanh hàng kém chất lượng; cố ý gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, các cơ quan, ban, ngành liên quan còn thiếu trách nhiệm, thờ ơ và thậm chí có tiêu cực trong quá trình kiểm tra, giám sát...

Tập đoàn Công nghiệp -Viễn thông Quân đội (Viettel) trao 80 suất quà tặng các em học sinh nghèo học giỏi của xã Mường Ải  (huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An).                             Ảnh : CTV

 Trách nhiệm xã hội của DN được thể hiện thông qua các yếu tố dưới đây:

Thứ nhất, trách nhiệm xã hội của DN góp phần điều chỉnh hành vi của chủ thể kinh doanh.

Trách nhiệm xã hội của DN cũng là cam kết của giới kinh doanh về những đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội bằng cách nâng cao đời sống của lực lượng lao động, đồng thời mang lại các phúc lợi cho cộng đồng và xã hội. Môi trường làm việc thuận lợi sẽ thúc đẩy người lao động làm việc tốt hơn, tạo điều kiện cho DN mở rộng thị trường và có thể tiếp cận với thị trường tiềm nãng.

Thứ hai, trách nhiệm xã hội của DN góp phần nâng cao chất lượng, giá trị thương hiệu và uy tín của DN.

Công bố thông tin minh bạch, điều hành DN hiệu quả, sử dụng vốn hợp lý để tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm là điều cần phải làm vì sự phát triển bền vững của DN. Đối với khách hàng, trách nhiệm xã hội của DN thể hiện ở việc bán sản phẩm đáp ứng nhu cầu, giá cả phải chãng, giao hàng đúng hẹn và an toàn trong quá trình sử dụng. Trách nhiệm xã hội có thể giúp DN tăng giá trị thương hiệu và uy tín, nhờ đó tăng doanh thu, hấp dẫn các đối tác, nhà đầu tư và người lao động.

Thứ ba, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần tăng lợi nhuận cho DN.

Trách nhiệm xã hội của DN có mối liên hệ tích cực đến lãi đầu tư, tài sản và mức tăng doanh thu, tạo cơ sở thành công cho tất cả các hoạt động kinh doanh quan trọng của tổ chức.

Việc hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương, nhất là ở khu vực nông thôn, có thể cung cấp cho DN nguồn lao động tại chỗ dồi dào và đáng tin cậy. Đồng thời, tạo lập cơ sở hạ tầng thuận lợi để mở rộng quy mô sản xuất, tăng thêm doanh thu cho DN.

Một nghiên cứu ở Mỹ cho thấy, các DN đạt kết quả tài chính tốt thường có xu hướng tích cực thể hiện trách nhiệm xã hội của mình. Nghiên cứu mới đây của Ethical Corporation (Anh) cho thấy, 90% DN ở châu Á nhận thức được tầm quan trọng về trách nhiệm xã hội đối với hoạt động kinh doanh, trong khi con số này tại châu Âu là 85% và Bắc Mỹ là 88%.

Thứ tư, trách nhiệm xã hội của DN góp phần thu hút và duy trì nguồn nhân lực chất lượng.

Lao động có năng lực là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm. Ở các nước đang phát triển, lực lượng lao động lớn nhưng đội ngũ lao động chất lượng lại không nhiều; do vậy, việc thu hút và giữ được nhân viên có chuyên môn tốt và có sự cam kết cao là một thách thức đối với DN.

Những DN thực hiện tốt trách nhiệm xã hội như trả lương cao, phân phối công bằng, thực hiện đầy đủ chế độ lao động (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động...) và môi trường làm việc thân thiện, an toàn sẽ có khả năng thu hút và duy trì được nhiều lao động có kỹ năng, tay nghề cao, gắn bó với DN.

Bên cạnh đó, việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của DN sẽ góp phần hình thành hệ thống quản lý lao động hiệu quả; tổ chức lao động khoa học; xây dựng quy chế quản lý tài chính, phân phối tiền lương và thu nhập hợp lý… giúp người lao động yên tâm làm việc, tăng năng suất lao động, ổn định cuộc sống.

Thứ năm, thúc đẩy DN tuân thủ Luật Lao động và các tiêu chuẩn quốc tế về lao động.

Theo kết quả khảo sát về tiền lương của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (năm 2015), hầu hết các doanh nghiệp khi điều chỉnh tiền lương tối thiểu theo quy định không cắt giảm các chế độ phúc lợi khác của người lao động. Cụ thể, có 68,6% người lao động cho biết họ “không bị cắt giảm”; chỉ có 8,3% số người trả lời “bị cắt giảm”; 15,8% trả lời “không rõ” có bị cắt hay không? Tỷ lệ người lao động trả lời “bị cắt giảm” tại các DN dệt may, da giày cao hơn một số ngành nghề khác. Tỷ lệ bị cắt giảm các khoản phụ cấp ở ngành da giày là 17%; ngành dệt may là 13,3%; ngành giao thông, xây dựng là 7,3% và ngành chế biến nông, lâm, thủy, hải sản là 6,4%. Các khoản bị cắt giảm không phải thuộc chế độ quy định của pháp luật, mà thường là các khoản thưởng, lễ tết, hỗ trợ phúc lợi, nghỉ dưỡng, hoặc không được tăng theo định kỳ hằng năm như tiền ăn, tiền chuyên cần.

Như vậy, trách nhiệm xã hội là xu thế tất yếu và mang tính toàn cầu; thực hiện trách nhiệm xã hội là tãng khả nãng cạnh tranh và hội nhập quốc tế, không mâu thuẫn với lợi ích kinh tế của DN. Để góp phần thúc đẩy DN tãng cường thực hiện trách nhiệm xã hội, chúng tôi xin đề xuất một số biện pháp như sau:

Một là, Chính phủ cần tạo ra môi trường pháp lý hoàn chỉnh, một sân chơi bình đẳng cho các DN; cung cấp thông tin, tư vấn, hướng dẫn và ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích đối với DN.

Hai là, người chủ DN cần trang bị kiến thức về lĩnh vực này và đề ra những hành động cụ thể để thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trách nhiệm xã hội của DN. DN cần thực hiện nghiêm các biện pháp bảo vệ môi trường quanh khu vực sản xuất, đảm bảo an toàn cho người lao động. Cùng với đó, DN cần tích cực đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ cộng đồng, thiện nguyện, như: giúp đỡ dân cư bị thiên tai, hỏa hoạn, ủng hộ các quỹ từ thiện, giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội hòa nhập với cộng đồng, phòng chống các tệ nạn xã hội...

Ba là, nghiên cứu xây dựng thang, bảng lương phù hợp, đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Bên cạnh những quy định của Chính phủ, khi xây dựng hoặc sửa đổi, bổ sung thang, bảng lương thì DN phải tham khảo ý kiến của đại diện tập thể người lao động tại DN và công bố công khai trước khi thực hiện.

Đồng thời, về khía cạnh định mức lao động, Nhà nước cũng cần quy định rõ trong văn bản quy phạm pháp luật định nghĩa về “định mức lao động”, cụ thể: “Định mức lao động là việc xác định số lượng công việc hay số sản phẩm làm ra của một hay một số người lao động trong một đơn vị trong thời gian nhất định hoặc quy định lượng thời gian cần để hoàn thành một đơn vị công việc hay sản phẩm”.

Có thể khẳng định, trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay, trách nhiệm xã hội của DN ngày càng có vai trò quan trọng, là công cụ hữu hiệu để các DN nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng doanh thu và giá trị thương hiệu. Hoạt động xã hội mà DN thực hiện đã góp phần quan trọng tạo nên hình ảnh tốt đẹp về DN trong tâm trí người tiêu dùng, tạo mối hợp tác lâu dài với đối tác kinh doanh, đưa DN phát triển bền vững và góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.

Đại tá, TS. NGÔ QUỐC HẢI

Khoa Chiến lược, Học viện Quốc phòng

 -------------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật Lao động năm 2012.

2. Bộ luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015.

3. Nghị định 49/2013/NĐ-CP.

4. Luật Bảo hiểm xã hội (Luật số 58/2014/QH13) ngày 20/11/2014.

5. Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014.

6. Luật Việc làm (Luật số 38/2013/QH13) ngày16/11/2013.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại