Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp năm 2018 và dấu hiệu tăng trưởng cao của nền kinh tế

1/25/2019 10:37:49 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 6

CNQP&KT - Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tăng mạnh trong năm 2018 cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang phát triển ngày càng bền vững; phản ánh niềm tin của người tiêu dùng trong nước và quốc tế với các sản phẩm công nghiệp có nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam gia tăng. Đó là những yếu tố quan trọng kích thích đầu tư sản xuất - dấu hiệu tăng trưởng cao của nền kinh tế năm 2019 và những năm

IIP là chữ viết tắt của cụm từ Index - Industry Products hoặc Index of Industrial Production trong tiếng Anh, nghĩa là chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp, còn được gọi là chỉ số khối lượng sản phẩm công nghiệp. IIP là tỷ lệ phần trăm giữa khối lượng sản xuất công nghiệp tạo ra trong kỳ hiện tại với khối lượng sản xuất công nghiệp kỳ gốc. Kỳ gốc được dùng so sánh có thể là bình quân tháng của một năm nào đó (thường là các năm chẵn chục, như năm 2000, 2010…) để có cách đánh giá, phân tích, nhìn nhận vấn đề một cách tổng thể, ổn định; có thể là cùng kỳ năm trước hoặc cùng kỳ năm trước liền kề để phân tích những tác động mang tính ngắn hạn, giúp Chính phủ và các cơ quan quản lý có phản ứng nhanh hơn, kịp thời hơn trong việc ngăn chặn những nguy cơ bất ổn hoặc đưa ra các giải pháp kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các ngành sản xuất công nghiệp.

IIP là chỉ số rất quan trọng phản ánh khái quát tình hình phát triển toàn ngành công nghiệp cũng như tốc độ phát triển của từng sản phẩm, từng nhóm ngành sản phẩm.Chỉ số IIP càng cao và chỉ số hàng tồn kho càng thấp, chứng tỏ “sức khỏe” của nền kinh tế càng tốt và có tính bền vững.


Dây chuyền sản xuất công nghiệp hiện đại mới được đầu tư ở Nhà máy Z131.                              Ảnh: Thùy Lâm

Theo số liệu do Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) vừa công bố, IIP tháng 12/2018 ước tính tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý IV/2018, IIP ước tính tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 2,6%; ngành chế biến, chế tạo tăng 11,1%; sản xuất và phân phối điện tăng 10,5%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,7%. Có thể nói, khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo tăng tới 11,7% phản ánh nhu cầu đầu vào sản xuất các mặt hàng khác tăng, nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của người tiêu dùng tăng; phản ánh dự báo lạc quan của các doanh nghiệp về triển vọng của thị trường.

Sự gia tăng của các hoạt động sản xuất công nghiệp dẫn tới nhu cầu tiêu thụ điện tăng tương ứng. Số liệu thống kê cho thấy, khối lượng sản xuất và phân phối điện tháng 12/2018 tăng tới 11,7% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng kỷ lục, cao nhất trong 5 tháng qua.

Tính chung cả năm 2018, IIP ước tính tăng 10,2% so với năm trước (quý I tăng 12,7%; quý II tăng 8,2%; quý III tăng 10,7%; quý IV tăng 9,4%), tuy thấp hơn mức tăng 11,3% của năm 2017 nhưng cao hơn mức tăng các năm 2012-2016. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng tới 12,98%.

Số liệu thống kê chỉ số IIP cả năm 2018 chia theo lĩnh vực như trên cho thấy, ngành chế biến, chế tạo đang tiếp tục đóng vai trò chủ chốt, đầu tàu trong việc kéo mức tăng trưởng chung của toàn ngành, trong khi ngành khai thác dầu thô - ngành công nghiệp vốn được coi là xương sống của cả nền kinh tế nước ta trong suốt thời gian dài trước đây - có chỉ số sản xuất giảm tới 11,3% so với năm trước. Đây là dấu hiệu rất tích cực, cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang giảm dần phụ thuộc vào khai thác dầu mỏ nói riêng và khoáng sản nói chung, nghĩa là nền kinh tế Việt Nam đang chuyển dần sang tăng trưởng theo hướng bền vững hơn.

Xét theo công dụng sản phẩm công nghiệp, chỉ số sản xuất sản phẩm trung gian (phục vụ cho quá trình sản xuất tiếp theo) năm 2018 tăng 9% so với năm trước; sản phẩm phục vụ cho sử dụng cuối cùng tăng 11% (sản phẩm là tư liệu sản xuất tăng 6,5% và sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng của dân cư tăng 13,3%).

Một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất năm 2018 tăng cao so với năm trước, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 65,5%; sản xuất kim loại tăng 25,1%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 20%; sản xuất xe có động cơ tăng 16,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 14%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 11,8%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 11,3%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2018 tăng cao so với năm 2017: Xăng, dầu tăng 51,2%; sắt, thép thô tăng 43,8%; khí hóa lỏng (LPG) tăng 29,8%; ti vi tăng 24%; Alumin tăng 23,3%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo tăng 18,9%...

Để thấy rõ hơn sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam đang theo hướng bền vững hơn, chúng tôi xin dẫn số liệu thống kê phân chia theo từng lĩnh vực kinh tế đóng góp vào mức tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) chung của cả nước. GDP cả năm 2018 tăng 7,08%, là mức tăng cao nhất trong 10 năm qua, kể từ khi cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu càn quét khắp hành tinh và kéo tụt tốc độ tăng trưởng của Việt Nam. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,76%, đóng góp 8,7% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,85%, đóng góp 48,6%; khu vực dịch vụ tăng 7,03%, đóng góp 42,7%.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp năm 2018 duy trì mức tăng trưởng khá với 8,79%, đóng góp 2,85 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Nghĩa là trong tổng số 7,08% tăng thêm của GDP, có tới 2,85% là từ đóng góp của khu vực sản xuất công nghiệp. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định là điểm sáng của khu vực này và là động lực chính của tăng trưởng với đóng góp tới 2,55 điểm phần trăm vào tổng số 7,08% tăng trưởng chung của toàn ngành kinh tế Việt Nam.

Sự lớn mạnh của công nghiệp hỗ trợ là một yếu tố rất quan trọng để bảo đảm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam phát triển bứt phá mạnh mẽ hơn.

Thời gian gần đây, luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào Việt Nam ngày càng lớn.Nhiều thương hiệu hàng đầu thế giới đã lựa chọn Việt Nam làm điểm đến đặt nhà máy sản xuất, cung cấp sản phẩm cho toàn thế giới.Samsung là một ví dụ điển hình.Các nhà máy Samsung ở Bắc Ninh, Thái Nguyên đang đóng góp phát triển tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) và góp phần quan trọng vào GDP cả nước.Các sản phẩm Samsung “Made in Vietnam” có mặt ở hầu hết các thị trường trên thế giới.

Sản xuất công nghiệp năm 2018 tăng, góp phần vào tăng trưởng GDP của nền kinh tế.                                                                Ảnh: TL

Có một số ý kiến lo ngại về việc phát triển thiếu bền vững khi dựa vào các doanh nghiệp FDI, tuy nhiên, lãnh đạo Đảng, Nhà nước luôn khẳng định quan điểm, doanh nghiệp FDI khi đầu tư vào lãnh thổ Việt Nam thì cũng là một thành phần của nền kinh tế Việt Nam. Khi tiếp đại diện doanh nhân trẻ tiêu biểu của Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cũng nhấn mạnh quan điểm: Khu vực FDI là một thành phần của nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam coi các doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật.Vì thế, trước đây, Việt Nam có các luật riêng về doanh nghiệp FDI, nhưng nay hợp nhất thành một luật duy nhất là Luật Doanh nghiệp. Chủ tịch Quốc hội cho rằng, doanh nghiệp FDI không chỉ đóng góp trực tiếp vào GDP, giải quyết công ăn việc làm, mà còn tạo ra những cơ hội rất tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam. Vấn đề quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam có nắm bắt được cơ hội để tham gia vào các chuỗi giá trị của họ hay không.

Thực tế đã chứng minh điều mà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nói là hoàn toàn đúng.Một số doanh nghiệp nước ngoài vẫn than phiền về việc các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể đáp ứng được yêu cầu cung cấp các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho họ, nên họ vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài với giá thành rất đắt đỏ. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam tham gia được vào các chuỗi giá trị do các doanh nghiệp FDI mang lại, ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam sẽ phát triển bứt phá, thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Việt Nam ngày càng lớn mạnh hơn, tạo nền tảng để kinh tế Việt Nam phát triển bền vững hơn.

Thời gian qua, rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã tìm đến các doanh nghiệp quân đội, trong đó có các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, để khảo sát và đặt hàng sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, như các nhà máy Z117, Z131, Z176, … Đặc biệt, với sự tín nhiệm của các đối tác, Nhà máy Z131 đã đầu tư hiện đại hóa dây chuyền sản xuất cơ khí hiện đại, tự động hóa ở mức độ cao để tham gia và xuất khẩu sản phẩm phụ trợ… Sự tham gia của một số nhà máy quốc phòng vào ngành công nghiệp hỗ trợ đã mang lại sự tăng trưởng ấn tượng cho doanh nghiệp trong thời gian gần đây, đồng thời góp phần khẳng định chủ trương kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài của Đảng, Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn.

Cũng theo số liệu thống kê từ Tổng cục Thống kê, năm 2018, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo tăng 12,4% so với năm trước (năm 2017 tăng 10,2%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân năm 2018 là 64,4%, đạt mức tồn kho thấp nhất trong những năm gần đây.

Nếu nhìn vào các chỉ số tiêu thụ và chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo sẽ thấy được những dấu hiệu tích cực, đáng mừng của nền kinh tế nước ta trong năm 2018. Chỉ số tiêu thụ tăng phản ánh sức hấp thụ của thị trường với các mặt hàng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đang tăng nhanh. Điều đó cũng thể hiện niềm tin của người tiêu dùng trong nước và quốc tế với các sản phẩm chế biến, chế tạo có nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam ngày càng tăng.

Chỉ số tiêu thụ tăng kéo theo chỉ số tồn kho giảm, khiến tỷ lệ tồn kho bình quân xuống mức thấp, làm cho tốc độ quay vòng vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trở nên nhanh hơn, làm giảm chi phí kho bãi, chi phí bảo quản sản phẩm và chi phí quản lý. Điều đó giúp lợi nhuận của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nhiều hơn, kích thích các nhà sản xuất đầu tư nhiều hơn để tìm kiếm và tối ưu hóa lợi nhuận. Về lâu dài, đây là điểm rất có lợi, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng tốt hơn cho các giai đoạn sau.

Từ con số thống kê nêu trên cho thấy rất rõ kịch bản tăng trưởng GDP cho năm 2019 của nước ta sẽ ở mức tối thiểu là 7%, trừ phi xuất hiện những yếu tố bất lợi bất ngờ trực tiếp kéo giảm mức tăng GDP chung, bởi nền tảng tăng trưởng chung là ngành sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo đang phát huy vai trò là bệ phóng kinh tế tương đối hoàn hảo.

NGUYỄN CHIẾN THẮNG

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại