Công nghiệp quốc phòng Việt Nam - thành tố quan trọng của đội quân sản xuất

1/13/2020 3:43:20 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 29

CNQP&KT - Tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là một trong những chức năng, nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa chiến lược của Quân đội nói chung và Công nghiệp quốc phòng (CNQP) Việt Nam nói riêng.

Điều này vừa thể hiện sâu sắc bản chất, truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, vừa là ý thức, trách nhiệm chính trị của Quân đội trong việc quán triệt, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng.

 Quân đội ta là đội quân chiến đấu, công tác và lao động sản xuất. Nhiệm vụ lao động sản xuất, xuất phát từ bản chất chính trị, nhu cầu của xã hội và Quân đội; đồng thời là giải pháp cần thiết để giữ gìn năng lực sản xuất quốc phòng, đóng góp nguồn lực quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Quân đội tham gia sản xuất theo 3 nhóm chủ yếu sau: Các doanh nghiệp quân đội (DNQĐ) là lực lượng nòng cốt trong hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế. Các đoàn kinh tế - quốc phòng, đứng chân ở các địa bàn chiến lược vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo... chủ yếu thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng; tuyên truyền, vận động hướng dẫn nhân dân sản xuất, xây dựng kinh tế; định canh, định cư xóa đói giảm nghèo, chính sách dân tộc, tôn giáo… Các đơn vị thường trực sẵn sàng chiến đấu và các đơn vị sự nghiệp công lập phát huy tiềm năng, thế mạnh tại chỗ, đẩy mạnh tăng gia sản xuất và tham gia vào các hoạt động khám chữa bệnh, đào tạo và nghiên cứu khoa học… Ngoài ra, còn có hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp quân đội hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập một số vấn đề về CNQP Việt Nam - thành tố quan trọng của đội quân sản xuất, xây dựng kinh tế.

Dây chuyền CNC phục vụ sản xuất hàng kinh tế của Nhà máy Z113. Ảnh: PV

Luật Quốc phòng (năm 2018) đã quy định rõ “Công nghiệp quốc phòng, an ninh là bộ phận của công nghiệp quốc gia, một phần quan trọng của thực lực, tiềm lực quốc phòng, an ninh”. Trải qua hơn 74 năm xây dựng và trưởng thành, CNQP Việt Nam có chức năng nghiên cứu, tiếp nhận chuyển giao và làm chủ công nghệ mới; thiết kế, chế tạo, sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) phục vụ cho quốc phòng - an ninh (QP-AN) bảo vệ Tổ quốc; đồng thời tham gia sản xuất các sản phẩm kinh tế dân sinh phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Với sự quan tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, những năm qua, ngành CNQP Việt Nam đã có bước phát triển khá toàn diện và vững chắc, xứng đáng là thành tố quan trọng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hiện tại, ngành CNQP Việt Nam đã sản xuất, sửa chữa được hầu hết các loại vũ khí, khí tài, đạn dược trang bị cho sư đoàn bộ binh đủ quân; làm chủ công nghệ sản xuất súng bộ binh thế hệ mới trên dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại; đóng mới và sửa chữa tàu quân sự đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới; sản xuất, sửa chữa, bảo dưỡng, tăng tầm, tăng hạn một số chủng loại vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại cho các quân, binh chủng; nghiên cứu chế tạo, sản xuất thành công hầu hết chủng loại vật tư (thuốc phóng, thuốc nổ, vật tư đặc chủng) phục vụ sản xuất quốc phòng… Bên cạnh đó, các nhà máy CNQP còn chú trọng phát triển các sản phẩm kinh tế đạt chất lượng, có tính cạnh tranh cao, góp phần vào phát triển kinh tế đất nước và xuất khẩu, như: vật liệu nổ công nghiệp, pháo hoa, đóng tàu, cơ khí, dệt may, điện tử, quang học,  quạt điện, cao su kỹ thuật, dây cáp điện các loại... từng bước xây dựng được thương hiệu cho sản phẩm.

Sản phẩm băng tải cao su cốt bạt EP chịu mài mòn do Nhà máy Z175 sản xuất được khách hàng ưa chuộng. Ảnh: PV

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng; hợp tác kinh tế phát triển mạnh, các nhu cầu thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh ngày càng lớn… sẽ là thời cơ thuận lợi cho DNQĐ nói chung và doanh nghiệp CNQP nói riêng đẩy mạnh sản xuất sản phẩm lưỡng dụng và kinh tế bảo đảm nhu cầu trong nước và xuất khẩu… Tuy nhiên, trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra yêu cầu cấp bách cho CNQP Việt Nam là cần có  nguồn nhân lực chất lượng cao để nâng cao hiệu quả nghiên cứu, cải tiến, sửa chữa, sản xuất VKTBKT hiện đại và sản phẩm kinh tế. Đồng thời, cần được ưu tiên nguồn lực đầu tư hiện đại hóa dây chuyền công nghệ, thiết bị hiện đại để sản xuất được các sản phẩm chất lượng, có tính cạnh tranh cao, phù hợp với xu thế hội nhập của khu vực, thế giới. Do vậy, để CNQP Việt Nam đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, thực sự là thành tố quan trọng của đội quân lao động sản xuất, thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đối với nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế.

Sự lãnh đạo của Đảng, Quân ủy Trung ương là nhân tố quyết định sự thành công trong thực hiện nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội nói chung, CNQP nói riêng; là vấn đề có tính nguyên tắc, điều kiện tiên quyết để đảm bảo sản xuất quốc phòng và kinh tế đạt hiệu quả cao. Trước hết, cần phải quán triệt, triển khai cụ thể Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết số 520-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội trong thời kỳ mới, nhằm khai thác mọi tiềm năng, phát huy nội lực, đưa hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế của CNQP đi vào nền nếp, đạt hiệu quả thiết thực. Cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Tổng cục CNQP chủ động xây dựng nghị quyết chuyên đề, chương trình, kế hoạch thực hiện sát với đặc điểm, nhiệm vụ được giao, đảm bảo mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh đều được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, tuân thủ đúng pháp luật Nhà nước, quy định của Bộ Quốc phòng. Bộ Quốc phòng chỉ đạo các cơ quan chức năng ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn, sửa đổi bổ sung, chỉ đạo việc tổ chức nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế phù hợp với đặc điểm của loại hình doanh nghiệp CNQP. Định kỳ chỉ đạo các cơ quan chức năng, mà trực tiếp là Tổng cục CNQP, trong xây dựng kế hoạch trung hạn, dài hạn và chiến lược sản xuất, kinh doanh. Chú trọng nắm toàn diện nguồn lực CNQP về quy mô, năng lực sản xuất, các dây chuyền công nghệ, mô hình và trình độ quản trị, quản lý, những thuận lợi, khó khăn trong tổ chức sản xuất để các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng kịp thời chỉ đạo các cơ sở CNQP xây dựng kế hoạch sản xuất kinh tế cho phù hợp.

Hai là, đẩy mạnh tái cơ cấu, sắp xếp nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp CNQP.

Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 425-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương “Về sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Trước hết, cần lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp với bước đi phù hợp. Kịp thời kiện toàn tổ chức, lực lượng, các cơ sở CNQP; xây dựng, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các thể chế, thiết chế; tích cực huy động nguồn lực đầu tư đổi mới công nghệ, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, trang - thiết bị, nâng cao năng lực tài chính; đẩy mạnh đổi mới công tác quản trị, quản lý doanh nghiệp; xây dựng thương hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh; xây dựng chiến lược phát triển, hội nhập; chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp với mô hình hoạt động, đặc thù quốc phòng và yêu cầu hội nhập quốc tế, v.v.

Ba là, chú trọng xây dựng, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho CNQP.

 Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển CNQP trong thời kỳ mới thì nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng, nhất là đội ngũ cán bộ cần được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng toàn diện, trước hết là bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, tổ chức chỉ huy, quản lý, quản trị doanh nghiệp và chuyên môn nghiệp vụ. Trong đó, gắn nâng cao trình độ lý luận với năng lực thực tiễn, chất lượng đào tạo trong hệ thống các học viện, nhà trường Quân đội. Cần ưu tiên đào tạo những ngành nghề kỹ thuật, công nghệ đặc thù, mũi nhọn, nhất là những lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực công nghệ gắn với các hướng phát triển sản phẩm CNQP và kinh tế. Chú trọng bồi dưỡng cán bộ khoa học, chuyên gia đầu ngành, công trình sư, tổng công trình sư, cán bộ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ, công nhân lành nghề... Đồng thời, Chính phủ cần có chính sách đặc thù để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển CNQP.

Bốn là, nâng cao hiệu quả đầu tư và đa dạng hóa nguồn lực cho sản xuất quốc phòng và kinh tế.

Tăng cường nguồn đầu tư của Nhà nước, đồng thời mở rộng phương thức huy động, phát huy tổng thể các nguồn lực của đất nước cho nhiệm vụ sản xuất quốc phòng và kinh tế. Chú trọng huy động có hiệu quả tiềm lực KHCN, tận dụng tối đa những thành tựu của công nghiệp quốc gia, nguồn lực của các ngành và các thành phần kinh tế; phát huy nội lực với tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài để xây dựng, phát triển CNQP. Thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; coi trọng đầu tư đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, “đi tắt đón đầu”, kết hợp đa năng, lưỡng dụng, gắn với phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Đồng thời, nâng cao trách nhiệm quản lý đầu tư, hiệu quả sử dụng các nguồn lực; kiên quyết khắc phục việc đầu tư dàn trải, trùng lặp, gây lãng phí…

 Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, nâng cao trình độ quản trị, quản lý doanh nghiệp đáp ứng chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước, mở rộng hợp tác quốc tế về CNQP đã trở thành xu thế tất yếu. Hội nhập quốc tế giúp CNQP Việt Nam có điều kiện mở rộng quan hệ với nhiều đối tác để lựa chọn, mua sắm vũ khí, trang bị; đồng thời tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến sản xuất các sản phẩm CNQP “Made in Vietnam”. Quá trình mở rộng hợp tác quốc tế cũng giúp tiếp thu được phương thức quản trị, quản lý doanh nghiệp tiên tiến của khu vực và thế giới. Quản trị, quản lý tốt nguồn lực đầu tư, tính toán chặt chẽ, tiết kiệm chi phí đầu vào… chính là biện pháp quan trọng để tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm CNQP và kinh tế. Đồng thời, tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, phát triển thị trường; lựa chọn đối tác, mở rộng liên doanh, liên kết với các đối tác trong và ngoài nước, nâng cao sức cạnh tranh và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Có thể nói, để CNQP Việt Nam luôn giữ vững vai trò là thành tố quan trọng của "đội quân lao động sản xuất" trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng trở thành bộ phận quan trọng của công nghiệp quốc gia, cần tiếp tục quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh lao động sản xuất, kết hợp chặt chẽ quốc phòng với kinh tế - kinh tế với quốc phòng, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, chiến lược, lâu dài, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Đại tá NGUYỄN ĐÌNH HOÀN

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại