Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong phát triển kinh tế biển

6/19/2019 7:49:10 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 21

CNQP&KT - Thời gian qua, việc kết hợp kinh tế với quốc phòng trong phát triển kinh tế biển ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, vừa khai thác hiệu quả tiềm năng biển, vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng trên các vùng biển, đảo. Trong thời gian tới hiệu quả của hoạt động này cần được tiếp tục phát huy.

Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong phát triển kinh tế biển là hoạt động chủ động, có mục đích, sử dụng tổng thể cách thức, biện pháp gắn chặt hai lĩnh vực kinh tế và quốc phòng trong quá trình phát triển kinh tế biển nhằm gia tăng hiệu quả sử dụng, khai thác tài nguyên biển, đảo, thúc đẩy các ngành kinh tế biển phát triển; đồng thời, tạo điều kiện tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ biển, đảo Tổ quốc.

Những năm qua, cơ sở vật chất của các ngành kinh tế biển được Nhà nước đầu tư tăng về số lượng, chất lượng và ngày càng hiện đại, đáp ứng mục đích lưỡng dụng. Ngành dầu khí nước ta đã tự chủ công nghệ dàn khoan, tự lực vận hành tàu khảo sát địa chấn 2D, 3D. Từ năm 2010 đến nay, công suất cảng biển tăng trên 80%, đạt gần 600 triệu tấn/năm, đáp ứng trên 103 lượt tàu/năm. Tàu khai thác hải sản công suất lớn tăng về số lượng, nhờ đó tăng khả năng vươn khơi, bám biển. Du lịch biển phát triển thúc đẩy cơ sở lưu trú tăng về số lượng, chất lượng. Hiện nay, có khoảng 12.000 cơ sở lưu trú ven biển, với trên 222.000 phòng, chiếm gần 50% cơ sở và phòng khách sạn toàn quốc. Kết cấu hạ tầng kinh tế biển như đường cao tốc kết nối trung tâm kinh tế biển, đường bộ ven biển, cảng biển, sân bay trên đảo…được đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng góp phần hoàn thiện kết cấu hạ tầng quân sự. Kết cấu hạ tầng kinh tế biển ngày càng hoàn thiện tạo điều kiện bảo đảm các phương thức cơ động lực lượng, phương tiện quân sự ven biển. Bên cạnh đó, việc phát triển 6 nhóm cảng biển góp phần hoàn thiện hạ tầng phục vụ tàu thuyền quân sự trên các hướng biển. Hạ tầng lưới điện, thông tin liên lạc được hoàn thiện góp phần quan trọng nâng cao khả năng kết nối, chỉ huy, hiệp đồng trong bảo vệ biển, đảo. Cùng với những thuận lợi trên, Nhà nước cũng rất quan tâm đến chính sách thu hút nhân lực cho phát triển kinh tế biển và tăng cường quốc phòng trên tuyến đảo với nhiều chính sách thu hút nhân dân định cư lâu dài trên các đảo...

Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả to lớn vẫn còn những hạn chế cần khắc phục trong việc kết hợp kinh tế với quốc phòng trong phát triển kinh tế biển, như: Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển kết hợp với quốc phòng vẫn còn thiếu đồng bộ; cơ chế, chính sách huy động, phân bổ nguồn lực cho mục đích phát triển kinh tế biển và củng cố quốc phòng còn nhiều hạn chế, nhất là trong lĩnh vực ngư nghiệp, cụ thể là chính sách đối với ngư dân; cơ sở vật chất một số ngành kinh tế biển phát triển thiếu định hướng, trình độ công nghệ còn lạc hậu, hạn chế khả năng huy động sử dụng cho quốc phòng; kết cấu hạ tầng kinh tế biển còn lạc hậu, tính kết nối chưa cao; kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các đảo, cụm đảo chậm phát triển, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động củng cố quốc phòng trên các vùng biển, đảo...

Cảng Đà Nẵng góp phần phát triển kinh tế khu vực miền Trung.     Ảnh: CTV

Thời gian tới, để khắc phục hạn chế và nâng cao hiệu quả kết hợp kinh tế với quốc phòng trong phát triển kinh tế biển ở nước ta, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:

Một là, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong phát triển kinh tế biển. Cụ thể là, nhanh chóng rà soát nhằm điều chỉnh những bất cập trong các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển, nhất là vấn đề phân bổ nguồn lực về vốn, con người, cơ sở vật chất cho từng ngành, từng vùng kinh tế biển. Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích, thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, để phát triển kinh tế biển. Xây dựng cơ chế, chính sách bảo đảm nguồn lực để phối, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các tổ chức, các lực lượng dân sự, quân sự trên biển. Xây dựng cơ quan quản lý các ngành kinh tế biển với đội ngũ cán bộ tham mưu có trình độ chuyên môn cao cả về kiến thức kinh tế - xã hội (KT-XH) và quốc phòng - an ninh (QP-AN), đáp ứng yêu cầu tham mưu ban hành cơ chế, chính sách ở tầm chiến lược.

Hai là, phát triển các ngành kinh tế biển theo hướng lưỡng dụng. Mục đích kết hợp kinh tế với quốc phòng được thể hiện đồng thời trong quá trình phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh các ngành kinh tế biển và quá trình huy động, sử dụng cơ sở vật chất, công nghệ, tiềm năng sản xuất của từng ngành kinh tế biển cho quốc phòng. Vì vậy, phát triển các ngành kinh tế biển theo hướng lưỡng dụng là yêu cầu cần thiết, bảo đảm vừa sản xuất, vừa có thể huy động phục vụ nhu cầu quốc phòng; phát triển công nghệ và sản phẩm lưỡng dụng trong các ngành kinh tế biển, như: đóng tàu, vận tải thủy, xây dựng công trình trên biển, công nghệ khai thác, chế biến dầu khí, khai thác, chế biến hải sản... Ngoài ra, xây dựng cơ cấu ngành kinh tế biển hợp lý trên các  vùng biển, đảo, bảo đảm khi có tình huống xảy ra có khả năng chuyển đổi linh hoạt sang phục vụ nhu cầu quốc phòng. Tiếp tục đẩy mạnh hiệu quả thực hiện chủ trương dân sự hóa hoạt động KT-XH trên các tuyến đảo và hướng tới “đô thị hóa” tuyến đảo.

Ba là, nâng cao chất lượng quy hoạch, thiết kế kỹ thuật kết cấu hạ tầng cho phát triển kinh tế biển và tăng cường quốc phòng. Trước hết, quán triệt tinh thần Nghị quyết 36-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương (khóa XII) là cần “phát triển kết cấu hạ tầng đa mục tiêu”1, trong đó chú trọng làm tốt công tác khảo sát, điều tra, đánh giá đầy đủ thực trạng, tác động của quy hoạch. Đồng thời, tăng cường quản lý nhà nước, bảo đảm việc thẩm định, xây dựng, triển khai, quản lý, sử dụng đúng mục đích kết hợp kinh tế với quốc phòng; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế biển với hoàn thiện kết cấu hạ tầng quân sự; hình thành các phương án huy động, sử dụng từng loại kết cấu hạ tầng kinh tế biển cho mục đích quốc phòng trên từng vùng biển, đảo.

Bốn là, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng trong phát triển các ngành kinh tế biển. Cần thực hiện tốt đánh giá và dự báo đúng nhu cầu phát triển cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực trong các ngành kinh tế biển; kết hợp chặt chẽ giữa công tác giáo dục, đào tạo bồi dưỡng kiến thức các ngành kinh tế biển với giáo dục, huấn luyện kiến thức, kỹ năng về QP-AN; khuyến khích xây dựng các cơ sở đào tạo ngành, nghề kinh tế biển bậc đại học, cao đẳng và dạy nghề ở các vùng ven biển; điều chỉnh, sắp xếp, bố trí lại dân cư các vùng biển, đảo phù hợp với yêu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng; thực hiện tốt việc thu hút nhân tài với đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực kinh tế biển nhằm “từng bước hình thành đội ngũ các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia đạt trình độ quốc tế, có chuyên môn sâu về biển và đại dương”2.

Năm là, phát huy vai trò của các chủ thể kinh tế biển trong thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng. Bản chất vấn đề này chính là huy động các chủ thể kinh tế biển tự nguyện tham gia đóng góp các nguồn lực cho quốc phòng cả ở dạng trực tiếp và tiềm năng. Muốn vậy, cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm từng chủ thể trong phát triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo; kết hợp chặt chẽ giữa thể chế hóa các chủ trương, chính sách với tăng cường kiểm tra, giám sát kết quả triển khai thực hiện của các chủ thể kinh tế biển. Trong đó, cần nhấn mạnh vai trò Quân đội trong cơ chế: Cấp ủy Đảng lãnh đạo; chính quyền quản lý điều hành; cơ quan quân sự các cấp tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát; các chủ thể kinh tế biển quán triệt, thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Để cơ chế vận hành hiệu quả, định kỳ hằng năm hoặc từng giai đoạn cần tổ chức diễn tập, động viên quốc phòng theo từng quy mô để các chủ thể kinh tế biển có điều kiện “làm quen” và phối hợp hiệu quả với nhau trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; ưu tiên hỗ trợ sản xuất trên các vùng biển sâu, biển xa để động viên, khuyến khích các chủ thể kinh tế biển mở rộng đầu tư sản xuất, kinh doanh.

Sáu là, nâng cao hiệu quả tham gia phát triển kinh tế biển của Quân đội. Để thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế với mục tiêu “trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển” đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp, trong đó có vai trò hết sức quan trọng của Quân đội. Trước hết, cần nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp quân đội (DNQĐ) tham gia phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình DNQĐ tham gia phát triển kinh tế biển để có cách thức quản lý hiệu quả; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên biển, trước hết ưu tiên đầu tư 3 khu xa bờ; các DNQĐ tập trung phát triển các ngành kinh tế biển mới, ở những vùng biển sâu, biển xa mà doanh nghiệp khác không có điều kiện hoặc không thể tham gia, như: “phát triển ngành chế tạo thiết bị phục vụ ngành công nghiệp năng lượng tái tạo... ngành dược liệu biển; nuôi trồng, chế biển rong, tảo, cỏ biển”3; du lịch đảo, nhất là triển khai trên vùng biển, đảo xa bờ.

 

Trung tá, TS. PHÙNG MẠNH CƯỜNG

          Trung tá, ThS. ĐINH XUÂN BẮC

-------------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 8, BCH TW khóa XII, Văn phòng TW Đảng, 2018, tr.98, tr.103, tr.91.

 

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại