Thu hút chất xám người Việt Nam ở nước ngoài để phát triển khoa học và công nghệ

8/14/2019 3:45:03 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 35

CNQP&KT - Số lượng, chất lượng và sự đóng góp chất xám của người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự phát triển khoa học công nghệ (KHCN) nước nhà, trong đó có lĩnh vực KHCN quân sự,còn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Vậy đâu là những “điểm nghẽn” cần tháo gỡ?

Trong cộng đồng khoảng 4,5 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, có khoảng 80% kiều bào định cư tại các nước có nền kinh tế phát triển và khoảng 10% có trình độ chuyên môn nghiệp vụ hoặc tay nghề cao. Nguồn chất xám người Việt Nam ở nước ngoài liên tục được bổ sung bởi lực lượng lưu học sinh, do nhều du học sinh sau khi tốt nghiệp ở lại làm việc và định cư tại nước sở tại. Họ được đào tạo ở trình độ đại học hoặc là công nhân kỹ thuật bậc cao tại các nước công nghiệp phát triển, có điều kiện tiếp cận với những thông tin và thành tựu mới về quản lý, khoa học và công nghệ (KHCN). Cùng với đó là nguồn chất xám của thế hệ kiều bào thứ hai, thứ ba ở nước ngoài. Nếu được khuyến khích và có cơ chế tuyển dụng, đãi ngộ phù hợp, đây sẽ là nguồn chất xám tiềm năng có thể đóng góp cho sự phát triển của đất nước, trong đó có lĩnh vực KHCN quân sự. Bên cạnh đó, một thế hệ trí thức mới là những người gốc Việt trẻ và tài năng đang hình thành và phát triển, nhất là ở các nước Bắc Mỹ, Tây Âu và Australia, tập trung ở nhiều lĩnh vực mũi nhọn như tin học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, chế tạo máy, điuề khiển học, sinh học... Chuyên gia, trí thức kiều bào là giới tinh hoa hoạt động trong môi trường KHCN tiên tiến, thành thạo ngôn ngữ quốc tế, có các mối quan hệ ở nước sở tại và quốc tế, nhờ đó có thể nắm bắt và tiếp cận được những công nghệ hiện đại. 

Với những chuyển biến đáng kể trong quan điểm, các chính sách linh hoạt, thông thoáng, công tác thu hút chất xám người Việt Nam ở nước ngoài để phát triển KHCN trong nước đã đạt được một số kết quả nhất định. Hằng năm, trung bình có khoảng 300 lượt trí thức người Việt Nam ở nước ngoài trở về nước làm việc, tham gia các chương trình hợp tác, nghiên cứu, triển khai KHCN, giáo dục và đào tạo. Trong đó, 55% chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài trở về làm việc ở các cơ quan nhà nước, 45% tham gia giảng dạy và hợp tác nghiên cứu ở các trường đại học, viện nghiên cứu, một số khác được mời tham gia đội ngũ cố vấn cho Thủ tướng Chính phủ... Ngoài ra, có hàng trăm lượt chuyên gia và doanh nhân trở về nước nghiên cứu, giảng dạy, hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, tham gai hội thảo... với các trường đại học, các viện nghiên cứu. Riêng với ngành giáo dục, mỗi năm có hàng chục lượt giáo sư, trí thức về nước tham gia các công việc giảng dạy, tư vấn và đầu tư.


Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trong cuộc gặp 100 chuyên gia, nhà khoa học trẻ người Việt tiêu biểu ở nước ngoài về nước tham dự Chương trình Kết nối Mạng lưới Đổi mới Sáng tạo Việt Nam (8/2018).

Bên cạnh đó, hoạt động của các hội, đoàn được đẩy mạnh và thực chất hơn đã góp phần gắn kết cộng đồng, giúp đỡ nhau làm ăn, hướng về đất nước, thực sự là cầu nối hữu nghị giữa Việt Nam với bạn bè thế giới. Đã có rất nhiều hội, đoàn và các tổ chức nghề nghiệp của người Việt, đặc biệt là ở các nước phát triển, trở về quê hương để thực hiện các dự án hợp tác KHCN và các hoạt động trợ giúp đồng bào trong nước.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy,số lượng, chất lượng và sự đóng góp chất xám của người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự phát triển KHCN nước nhà còn chưa tương xứng với tiềm năng.Qua nghiên cứu có thểluận giải một số nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc thu hút chất xám người Việt Nam ở nước ngoài chưa hiệu quả:

Thứ nhất,có khoảng cách lớn giữa chủ trương, quan điểm và thực tế thực hiện trong thu hút chất xám người Việt Nam ở nước ngoài để phát triển KHCN. Thực tế chủ yếu vẫn là những cuộc vận động, tuyên truyền cùng việc nới lỏng một số thủ tục hành chính; chưa có cơ sở dữ liệu về nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài; một số mạng lưới kết nối được thiết lập song thông tin còn hạn chế, nặng về tuyên truyền.

Thứ hai, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong nước tuy đã có nhận thức về sự cần thiết phải có nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng chưa xác định được yêu cầu cụ thể, chưa có các chương trình, dự án hợp tác khả thivà hầu như vẫn đứng ngoài cuộc trong quá trình thu hút chất xám người Việt Nam ở nước ngoài.

Thứ ba, môi trường vật chất để làm việc còn nhiều hạn chế. Hiệu quả của sự đóng góp của trí thức Việt Nam ở nước ngoài có trường hợp còn phụ thuộc vào “tư duy” của chính quyền, của cấp lãnh đạo. Bởi lẽ, để thu hút hiệu quả nguồn chất xám này không đơn thuần chỉ là những biện pháp hành chính, những ưu đãi vật chất mà còn cần có môi trường thích hợp cho tự do học thuật, nghiên cứu và truyền bá kiến thức.

Thứ tư, cơ chế, chính sách còn thiếu đồng bộ và chưa đủ mạnh để thu hút chuyên gia, trí thức kiều bào tham gia phát triển KHCN. Chính sách tiền lương chưa tạo được bước đột phá trong việc thu hút người tài; thiếu cơ chế và điều kiện để trí thức người Việt Nam ở nước ngoài hợp tác nghiên cứu có hiệu quả tại các cơ quan nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng tại các bộ, ngành, địa phương...

Thời gian tới, để công tác thu hút chất xám người Việt Nam ở nước ngoài thực sự trở nên hiệu quả, thực chất, theo chúng tôi, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, có các cơ chế, chính sách thu hút hợp lý nguồn chất xám người Việt Nam ở nước ngoài. Thành lập trung tâm trọng điểm ở một số ngành mũi nhọn và lĩnh vực cốt yếu, xác định đây là nơi thu hút và môi trường lý tưởng để nhân tài KHCN Việt kiều trở về cống hiến; là đầu mối kết nối với các trung tâm KHCNhàng đầu trên thế giới. Thực tế, những năm gần đây, Việt Nam đã có những động thái tích cực thực hiện chính sách này, như đang triển khai thành lập một số đại học đẳng cấp quốc tế, thành lập Viện Khoa học và công nghệ Việt Hàn (VKIST)...

Đồng thời, cần xây dựng cơ chế đảm bảo tự chủ thực sự, tự do học thuật (theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế), nguồn tài chính dồi dào và ổn định; cơ sở vật chất, trang - thiết bị, phương tiện làm việc đầy đủ và hiện đại. Bên cạnh đó, cần có các chính sách, chế độ đãi ngộ phù hợp căn cứ vào hiệu quả công việc, giá trị nhân tài đem lại.

Hai là, thiết lập và duy trì một số mạng lưới kết nối cộng đồng nhân tài Việt kiều, đồng thời kết nối các mạng lưới do nhân tài Việt kiều thiết lập ở nước sở tại. Thường xuyên cập nhật cơ sở dữ liệu về nhân tài Việt kiều, như: nghề nghiệp, chuyên ngành, kinh nghiệm... Các mạng lưới này là “ăng ten” thu nhận, cập nhật thông tin về các tri thức làm việc trong lĩnh vực KHCN; là nơi đăng tải thông tin về nhu cầu tuyển dụng trong nước (cả dài hạn và ngắn hạn); cung cấp thông tin đầy đủ về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước.

Ba là, xây dựng môi trường khoa học, giáo dục sau đại học có sức hấp dẫn không chỉ đối với nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài mà cả nhân tài nước ngoài, để Việt Nam trở thành điểm đến thường xuyên và “bến đậu” của nhân tài quốc tế.

Muốn vậy, cần tiến hành cải tổ toàn diện hệ thống KHCN, giáo dục và đào tạo, đặc biệt là hệ đại học và sau đại học. Chấn hưng giáo dục, phát triển KHCN bằng các chính sách cụ thể, quyết liệt, bảo đảm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần đưa trình độ KHCN của đất nước ngang tầm với nhiều nước trong khu vực, tạo tiền đề chuyển sang nền kinh tế tri thức.

Bốn là, khuyến khích doanh nghiệp trong nước chủ động, tích cực đầu tư phát triển nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực. Thực tế cho thấy, không có nước nào có nền kinh tế và KHCN phát triển mà thiếu vắng vai trò của doanh nghiệp, ở các nước phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Pháp, doanh nghiệp tư nhân đều chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư nghiên cứu và phát triển KHCN.

Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, thực hiện nghiêm túc, đầy đủ những giải pháp nêu trên sẽ tạo thuận lợi và động lực thu hút chất xám người Việt Nam ở nước ngoài để phát triển KHCN, trong đó có lĩnh vực KHCN quân sự, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Trung tá, TS. PHẠM TUẤN ANH *

  PHẠM MẠNH HÙNG **

 _____________

* Học viện Kỹ thuật Quân sự.

** Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Linh Anh (2016), “Đẩy mạnh thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài về nước làm việc”.

2. Đoàn Văn Cường - Trần Lưu Kiên (2015), Từ chảy máu chất xám đến tuần hoàn chất xám: Một số vấn đề lý luận và hàm ý chính sách thu hút nhà khoa học trình độ cao trở về Việt Nam”.

3. Nguyễn Minh Phong (Chủ nhiệm) (2009), “Thu hút các nguồn lực của người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào phát triển kinh tế-xã hội Thủ đô Hà Nội đến năm 2015”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại