Thể chế hóa quản lý nhà nước là một quá trình lâu dài nhằm phát triển CNQP từ tình trạng khép kín, biệt lập trong nội bộ Quân đội trở thành một ngành công nghiệp của quốc gia. Có rất nhiều cột mốc mang tính bước ngoặt, có ý nghĩa chiến lược để thực hiện định hướng quan trọng này của Đảng và Nhà nước ta, trong đó nổi bật nhất là 2 văn kiện: Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 20/7/1993 của Bộ Chính trị về "Xây dựng và phát triển CNQP đến năm 2000" và Dự thảo Luật CNQP, AN và ĐVCN đang trong quá trình hoàn thiện, dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua trong nhiệm kỳ này.
Ý nghĩa chính trị của Nghị quyết số 05/NQ-TW là nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng về CNQP; trong đó xác định những nguyên tắc cơ bản, lâu dài, đặt nền móng cả về tư duy lý luận và thực tiễn cho các nghị quyết ở giai đoạn tiếp theo. Quá trình triển khai thực hiện nghị quyết đã tạo ra những đột phá để hình thành nền tảng cốt lõi trong chủ trương thể chế hóa về mặt nhà nước vị trí, vai trò, mô hình tổ chức của CNQP Việt Nam. Lần đầu tiên, cơ chế phân công phụ trách nhiệm vụ CNQP ở cấp Chính phủ được thiết lập. Nguồn vốn đầu tư cho CNQP không còn khép kín trong ngân sách quốc phòng mà đã bắt đầu được cân đối từ ngân sách phát triển của quốc gia… Đây cũng là căn cứ để xây dựng và ban hành Pháp lệnh ĐVCN (năm 2003) và Pháp lệnh CNQP (năm 2008).
Khi Luật CNQP, AN và ĐVCN được ban hành sẽ trở thành bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược để hoàn tất cơ bản quá trình thể chế hóa nhà nước đối với CNQP Việt Nam; có ý nghĩa then chốt cho việc định hướng phát triển CNQP trong thế kỷ XXI, trực tiếp nhất là cho chặng đường từ nay tới năm 2030 và năm 2045. Quá trình xây dựng Luật đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và rất nhiều cơ quan, ban, ngành cả trong và ngoài Quân đội. Đây không chỉ là nguyện vọng và mong đợi từ lâu của các thế hệ Quân giới lão thành, mà còn thể hiện trách nhiệm và quyết tâm rất cao của các thế hệ CNQP hiện nay. Chính vì vậy, chúng ta có thể tin tưởng rằng, nội dung quản lý, nguyên tắc hoạt động, mô hình tổ chức, cơ chế về nguồn lực, chính sách đặc thù, mối quan hệ công tác và phân công trách nhiệm… khi được luật hóa sẽ tạo tiền đề cho các bước phát triển mới của CNQP Việt Nam cả về lượng và chất trong thời kỳ mới.
Khách quốc tế xem sản phẩm quân sự do Tập đoàn Viettel nghiên cứu, sản xuất tại Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022. Ảnh: PV
Cũng vì ý nghĩa và giá trị lâu dài của Luật nên quá trình soạn thảo luôn nảy sinh nhiều vấn đề rất mới, chưa có tiền lệ cả về lý luận và thực tiễn. Trong đó, điểm xuất phát đầu tiên bao giờ cũng liên quan tới việc thống nhất nhận thức chung về những khái niệm, phạm trù cần được định nghĩa trong Luật để sử dụng và dẫn hướng cho các điều khoản quy định cụ thể. Đặc biệt là những thuật ngữ mới, có vai trò định hướng mở đường cho việc hình thành các mô hình tổ chức và phương thức quản lý hiện đại đối với CNQP trong tương lai. Một ví dụ cụ thể là phạm trù tổ hợp CNQP.
Định hướng hình thành các tổ hợp CNQP công nghệ cao đã được xác định trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc cũng như Đại hội Đảng bộ Quân đội nhiệm kỳ 2020-2025. Đây cũng là đề xuất từ phía các cơ sở CNQP nòng cốt và là nội dung đang được nghiên cứu trong một số đề tài khoa học. Mô hình tổ hợp CNQP có rất nhiều kinh nghiệm và thông lệ quốc tế, nhưng các nước trên thế giới cũng có sự khác biệt nhất định trong việc định nghĩa và sử dụng thuật ngữ này trong thực tiễn.
"Tổ hợp CNQP Việt Nam là tổng thể các thành tố chính trị, quốc phòng - an ninh, kinh tế, công nghiệp, khoa học - công nghệ của quốc gia tham gia thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển tiềm lực CNQP".
(Thiếu tướng, PGS, TS. Đoàn Hùng Minh)
Khác với khái niệm tổ hợp công nghiệp dân sinh, khái niệm tổ hợp CNQP phức tạp hơn nhiều là do đặc thù của nó về mặt quản lý, mà cốt lõi nhất là 10 đặc điểm sau đây: 1, mục tiêu phát triển CNQP phụ thuộc vào 3 trụ cột: ý chí chính trị, tiềm lực quân sự, tiềm lực công nghiệp của quốc gia; 2, nhiệm vụ CNQP gắn với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nên quản lý CNQP phải gắn với quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh; 3, hoạt động CNQP chịu sự chi phối đồng thời của pháp luật quân sự và pháp luật kinh tế; 4, cơ chế huy động và khai thác các nguồn lực quốc gia dành cho CNQP có tính đặc thù; 5, yêu cầu cao về an ninh, bảo mật trong hoạt động CNQP; 6, yêu cầu cao về khả năng sẵn sàng chuyển trạng thái thời bình - thời chiến; 7, yêu cầu cao về chủ quyền quốc gia và khả năng tự lực, tự cường trong tiềm lực CNQP để đối phó với các tình huống bị bao vây, cấm vận; 8, vai trò độc quyền của khách hàng sử dụng vũ khí là các lực lượng vũ trang; 9, tính lưỡng dụng về công nghệ và sản phẩm CNQP; 10, các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động CNQP phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định của pháp luật (không tự do hóa thị trường CNQP).
10 đặc điểm trên là cơ sở để soạn thảo các điều khoản của Luật nhằm điều chỉnh đồng bộ mối quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân liên quan tới nhiệm vụ xây dựng và phát triển CNQP. Đồng thời, cũng lý giải vì sao phải xác định rõ khái niệm tổ hợp CNQP trong điều kiện của Việt Nam. Trên thế giới, khái niệm tổ hợp CNQP gắn với phương thức liên kết, gắn kết, các mối quan hệ chi phối và hợp tác giữa các thể chế, tổ chức, cá nhân… để thực hiện các mục tiêu liên quan tới phát triển tiềm lực CNQP. Không có bất kỳ quốc gia nào coi tổ hợp CNQP là một loại hình tổ chức của doanh nghiệp CNQP. Phương thức gắn kết tổ hợp CNQP của mỗi quốc gia luôn có đặc điểm riêng, nhưng đều có sự phân biệt rõ ràng giữa 2 khái niệm vĩ mô và vi mô.
Dây chuyền, thiết bị hiện đại mới được đầu tư phục vụ sản xuất ở Nhà máy Z129. Ảnh: PV
Khái niệm vĩ mô
Tổ hợp CNQP của quốc gia là phương thức gắn kết lợi ích và mục tiêu giữa 3 thành tố then chốt là giới chính trị (thể chế của Nhà nước), giới quân sự (các lực lượng vũ trang là người đặt hàng trực tiếp) và giới công nghiệp (các tập đoàn, công ty, các tổ chức nghiên cứu CNQP…). Tùy thuộc vào thể chế nhà nước, hệ thống chính trị, mô hình các lực lượng vũ trang và chế độ sở hữu đối với CNQP (tư nhân hay nhà nước chi phối), tổ hợp CNQP của mỗi quốc gia có thể có những đặc điểm khác biệt nhất định. Một số nước xác định cụ thể hơn về thành phần của tổ hợp CNQP gồm: các thể chế nhà nước, bộ máy đặt hàng quốc phòng, các quân - binh chủng trong lực lượng vũ trang (người trực tiếp sử dụng vũ khí); các tổ chức và doanh nghiệp nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa vũ khí và dịch vụ xuất nhập khẩu liên quan; các tổ chức, cá nhân vận động hành lang (lobby) về luật pháp và chính sách CNQP của quốc gia… Khái niệm tổ hợp CNQP vĩ mô tương đồng với khái niệm nền CNQP của quốc gia mà Việt Nam vẫn đang sử dụng lâu nay.
Từ kinh nghiệm và thông lệ quốc tế, cũng như từ điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề xuất định nghĩa như sau: "Tổ hợp CNQP Việt Nam là tổng thể các thành tố chính trị, quốc phòng - an ninh, kinh tế, công nghiệp, khoa học - công nghệ của quốc gia tham gia thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển tiềm lực CNQP. Tổ hợp CNQP Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng và sự quản lý của Nhà nước để gắn kết tiềm lực CNQP với các lực lượng vũ trang và toàn bộ tiềm lực công nghiệp, khoa học - công nghệ của đất nước trong quá trình nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị và các sản phẩm lưỡng dụng đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Trong cấu hình liên kết của tổ hợp CNQP công nghệ cao, lưỡng dụng tại Việt Nam trong tương lai sẽ có sự tham gia của nhiều tổ chức, doanh nghiệp độc lập cả ở trong và ngoài nước.
Khái niệm vi mô
Trước hết, không nên lẫn lộn giữa khái niệm tổ hợp CNQP ở cấp vi mô với mô hình tập đoàn CNQP. Mô hình tổ chức doanh nghiệp kiểu tập đoàn công nghiệp có công ty mẹ nắm quyền kiểm soát, lãnh đạo và chi phối hoạt động của các công ty con về mặt chiến lược, vốn, kế hoạch sản xuất, kinh doanh… Còn tổ hợp CNQP không phải là một loại hình doanh nghiệp mà là phương thức liên kết, hợp tác, phân công chuyên môn hóa để hình thành chuỗi giá trị sản xuất gắn với một số nhóm sản phẩm quân sự hoặc một số lĩnh vực công nghệ quân sự cụ thể. Các thành viên của tổ hợp CNQP cấp vi mô có thể là những pháp nhân hoàn toàn độc lập và gắn kết với nhau bằng các thỏa thuận lợi ích chung liên quan tới hoạt động CNQP.
Luật pháp về doanh nghiệp của các nước trên thế giới cũng không có quy định về mô hình tổ chức doanh nghiệp với tên gọi tổ hợp CNQP. Cũng không có mô hình mẫu về tổ hợp CNQP cấp vi mô vì đây là phương thức liên kết hợp tác của các tổ chức CNQP nên rất đa dạng cả về bề rộng và chiều sâu.
Vì sao trong pháp luật về CNQP phải có quy định về tổ hợp CNQP? Điều này cũng xuất phát từ 10 đặc điểm đã nêu ở trên. CNQP liên quan tới an ninh quốc gia, khả năng tự lực, tự cường về tiềm lực, sẵn sàng chuyển trạng thái thời chiến… Do đó, chuỗi giá trị sản xuất vũ khí không thể hình thành tự phát, thuần túy theo cơ chế thị trường và tùy theo lựa chọn của doanh nghiệp như tại các ngành công nghiệp dân sinh. Ngược lại, các đối tác trong và ngoài nước muốn tham gia chuỗi giá trị sản xuất quân sự đều phải tuân theo quy định của pháp luật và được cấp có thẩm quyền cho phép. Chính phủ các nước không ra quyết định thành lập tổ hợp CNQP cấp vi mô về mặt tổ chức (như trường hợp của tập đoàn công nghiệp), nhưng vẫn kiểm soát thành phần các tổ chức, cá nhân được phép tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất quân sự. Ví dụ, tại Liên bang Nga có Đạo luật số 488-F3 ngày 31/12/2014 (sửa đổi ngày 24/7/2023) về chính sách công nghiệp, tại Điều 21, Khoản 2 có quy định: thành phần của tổ hợp CNQP do Chính phủ quyết định.
Như vậy, những đề xuất trong nghiên cứu tổ hợp CNQP công nghệ cao hay tổ hợp CNQP lưỡng dụng ở Việt Nam hiện nay về thực chất chính là khái niệm tổ hợp CNQP cấp vi mô theo thông lệ quốc tế. Trong cấu hình liên kết của tổ hợp CNQP công nghệ cao, lưỡng dụng tại Việt Nam trong tương lai sẽ có sự tham gia của nhiều tổ chức, doanh nghiệp độc lập cả ở trong và ngoài nước, không thuộc sở hữu hoặc quyền quản lý của đơn vị CNQP đóng vai trò hạt nhân nòng cốt của tổ hợp (đơn vị chủ sản phẩm quân sự cuối cùng). Các thành viên của tổ hợp tham gia dựa trên các thỏa thuận tự nguyện, lâu dài cùng với đơn vị chủ sản phẩm để phát triển chuỗi giá trị sản xuất sản phẩm quốc phòng, lưỡng dụng theo quy hoạch chung và được sự đồng ý của Chính phủ.
Bước thí điểm đầu tiên có thể bắt đầu trong lĩnh vực vũ khí có độ chính xác cao do Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) chủ trì (tạm gọi là tổ hợp CNQP công nghệ cao). Tất nhiên, đây không phải là tổ hợp vi mô duy nhất vì trong tương lai, cũng sẽ có các doanh nghiệp hoặc tập đoàn khác của CNQP Việt Nam trở thành hạt nhân nòng cốt của chuỗi giá trị sản xuất (tổ hợp) trong các lĩnh vực chuyên sâu khác, như: đóng tàu quân sự, vũ khí lục quân… Các lĩnh vực này cũng bao hàm cả công nghệ cao và công nghệ thông thường. Xu hướng phát triển này sẽ còn có biến động và cần tiếp tục theo dõi trong trung hạn và dài hạn, trước khi hình thành các quy định cụ thể ở cấp văn bản dưới Luật.
Từ các phân tích nêu trên, kiến nghị đưa vào Dự thảo Luật CNQP, AN và ĐVCN định nghĩa khái niệm tổ hợp CNQP cấp vi mô như sau: "Tổ hợp CNQP công nghệ cao, lưỡng dụng là phương thức liên kết, hợp tác phân công chuyên môn hóa bằng nhiều phương thức và cơ chế linh hoạt khác nhau (thỏa thuận hợp tác dài hạn, đặt hàng - thuê bên ngoài, lập quỹ đầu tư chung, mua bán, sáp nhập, liên doanh…) nhằm mục tiêu hình thành chuỗi giá trị sản xuất các sản phẩm quốc phòng - an ninh cụ thể hoặc trong một số lĩnh vực chuyên sâu về công nghệ quân sự, lưỡng dụng theo quy hoạch chung của tiềm lực CNQP quốc gia. Tổ hợp CNQP công nghệ cao và lưỡng dụng được hình thành với hạt nhân nòng cốt là một tổ chức (tập đoàn, công ty hoặc viện nghiên cứu), có sự tham gia của các đơn vị CNQP nòng cốt, cơ sở ĐVCN, các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước để tạo ra năng lực tự chủ và đồng bộ về chuỗi giá trị sản xuất CNQP, bao gồm các khâu từ nghiên cứu - phát triển, thiết kế - công nghệ, chế tạo, lắp ráp - tích hợp, sửa chữa - bảo dưỡng, công nghiệp phụ trợ (sản xuất vật tư bán thành phẩm vũ khí), công nghiệp sản xuất vật liệu, nguyên nhiên liệu, các dịch vụ kỹ thuật và thương mại quân sự, cung ứng - kho vận…". "Thành phần tổ chức, cá nhân tham gia các tổ hợp CNQP công nghệ cao, lưỡng dụng do Chính phủ quyết định".
Những đề xuất nêu trên chỉ là các nguyên tắc cốt lõi ban đầu. Trong quá trình triển khai thực tiễn sẽ cần tiếp tục rút kinh nghiệm để hoàn thiện, bổ sung đầy đủ và chuẩn xác hơn về khái niệm tổ hợp CNQP cấp vĩ mô và vi mô trong điều kiện Việt Nam.
Thiếu tướng, PGS, TS. ĐOÀN HÙNG MINH
Nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp quốc phòng