Đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất quốc phòng

12/7/2023 11:33:59 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 13

CNQP&KT - "Đổi mới sáng tạo" là một định hướng quan trọng trong mọi lĩnh vực và được nhắc nhiều trong thời gian gần đây. Việc đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất quốc phòng đặt ra những yêu cầu cao hơn, để tự lực, tự chủ chế tạo được nhiều chủng loại vũ khí, trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại, có nhiều tính năng ưu việt, vượt trội so với sản phẩm hiện có.

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: "Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị, văn hóa con người Việt Nam". Như vậy, điểm mới trong nhận thức về vai trò của khoa học và công nghệ (KHCN) là không chỉ nhấn mạnh phát triển, ứng dụng KHCN vào đời sống, mà còn đề cao yêu cầu đổi mới sáng tạo như một định hướng trung tâm của sự phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0) đang tăng tốc. Theo đó, tập trung vào nhiệm vụ đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KHCN, đổi mới sáng tạo, tiếp cận và áp dụng những thành tựu của Cách mạng 4.0; thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng: Đổi mới sáng tạo thông qua KHCN là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò đột phá chiến lược, động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng; đồng thời, là chìa khóa giúp Việt Nam vượt qua mức thu nhập trung bình, thoát khỏi sự lệ thuộc vào công nghệ thấp và nguồn tài nguyên… 

Có thể nói, đổi mới sáng tạo chính là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa. Trong đó, công nghệ là cái gốc của đổi mới sáng tạo và tùy theo mức độ tác động mà đóng vai trò trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình đó.


Quang cảnh Hội thảo giới thiệu một số chuyên đề về đổi mới sáng tạo và đổi mới sáng tạo trong công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ do Tổng cục CNQP tổ chức (tháng 6/2023).          Ảnh: HẢI ĐĂNG

Đối với ngành Công nghiệp quốc phòng (CNQP), việc đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu KHCN phục vụ sản xuất quốc phòng ngày càng được quan tâm, với những yêu cầu cao hơn, tự lực, tự chủ chế tạo ra nhiều chủng loại vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) hiện đại hơn, có nhiều tính năng ưu việt, vượt trội so với sản phẩm hiện có. Nghiên cứu KHCN phục vụ sản xuất quốc phòng cần tự chủ trong nghiên cứu, sản xuất các loại VKTBKT hiện đại, phù hợp với điều kiện địa chính trị - xã hội và yêu cầu tác chiến của Quân đội. Tuy nhiên, hiện nay, việc tiếp cận các thông tin nghiên cứu VKTBKT trên thế giới còn rất hạn chế do các nước luôn bảo mật thông tin liên quan đến lĩnh vực này; phương tiện, trang - thiết bị phục vụ tính toán thiết kế sản phẩm còn thiếu; các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu rất ít. Các loại VKTBKT được chế tạo theo quy trình công nghệ dựa trên các trang - thiết bị hiện có, mức độ tự động hóa, thông minh hóa còn hạn chế. Ngoài ra, việc nghiên cứu công nghệ chưa chuyên sâu, thiếu các nghiên cứu cơ bản, công nghệ nền (như công nghệ vật liệu, hóa chất, tự động hóa…).

Đổi mới sáng tạo thông qua khoa học và công nghệ đóng vai trò đột phá chiến lược, động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng; đồng thời, là chìa khóa giúp Việt Nam vượt qua mức thu nhập trung bình, thoát khỏi sự lệ thuộc vào công nghệ thấp và nguồn tài nguyên… 

Trong khi đó, sản phẩm quốc phòng có một số tính chất đặc thù, như: Chủ yếu là các loại VKTBKT phục vụ yêu cầu huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của Quân đội; độ tin cậy cao, hoạt động trong các điều kiện khắc nghiệt, quyết định đến hiệu quả chiến đấu và tác động trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của bộ đội trong huấn luyện. Không những thế, VKTBKT thường được sản xuất theo lô, loạt với số lượng lớn, thử nghiệm nhiều nội dung trong điều kiện khắc nghiệt, sát với thực tế chiến đấu để đảm bảo độ tin cậy của sản phẩm...

Từ những tính chất đặc thù trên, đặt ra yêu cầu cần thiết phải đổi mới sáng tạo toàn diện trong các khâu, từ tuyển chọn, quản lý, triển khai thực hiện và ứng dụng các thành tựu KHCN phục vụ sản xuất quốc phòng, đáp ứng nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay, đó là:

Thứ nhất, phù hợp với đường lối chiến tranh nhân dân, thế trận chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam; nhiệm vụ xây dựng Quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đáp ứng yêu cầu phòng thủ đất nước. Bên cạnh nghiên cứu những sản phẩm hiện đại, có tính tích hợp cao, vẫn cần nghiên cứu các sản phẩm đơn giản, hiệu quả, phù hợp với lực lượng cũng như địa hình tác chiến của nước ta.


Cán bộ, nghiên cứu viên Viện Thiết kế tàu quân sự (Tổng cục CNQP) trao đổi phương án nghiên cứu thiết kế tàu.  Ảnh: THÁI ANH

Thứ hai, cần hướng tới làm chủ thiết kế, công nghệ chế tạo thay thế và từng bước cơ giới hóa, tự động hóa, thông minh hóa các chủng loại VKTBKT hiện có của Quân đội. Đặc biệt, cần áp dụng triệt để những thành tựu của Cách mạng 4.0, sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ nano, chíp bán dẫn và vi mạch… Đồng thời, từng bước xây dựng các mô hình sản xuất tự động, theo hướng tối ưu hóa quá trình sản xuất.  

Thứ ba, thực hiện sản xuất với sản lượng lớn, theo lô, loạt theo quy trình công nghệ chặt chẽ, phù hợp với trang - thiết bị hiện có tại các cơ sở CNQP nòng cốt và phù hợp điều kiện động viên công nghiệp, nền tảng công nghiệp địa phương, công nghiệp quốc gia.

Thứ tư, yêu cầu về hội nhập trong nước và quốc tế. Đây là xu thế tất yếu, giúp các nhà khoa học tiếp cận với các công trình nghiên cứu và công nghệ sản xuất hiện đại. Việc tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế giúp huy động tiềm lực KHCN phục vụ công tác nghiên cứu; ứng dụng thành tựu của Cách mạng 4.0 trong nghiên cứu thiết kế, chế tạo VKTBKT mới để rút ngắn thời gian nghiên cứu, chế tạo, sớm đưa các sản phẩm vào trang bị cho Quân đội.

Thứ năm, yêu cầu về tự chủ, tự lực, tự cường. Do tính chất đặc thù của việc nghiên cứu chế tạo các loại VKTBKT trang bị cho Quân đội để bảo vệ đất nước chống lại các mối đe dọa đến an ninh, toàn vẹn lãnh thổ nên yêu cầu về việc tự chủ, tự lực trong nghiên cứu, sản xuất quốc phòng càng trở nên quan trọng.

Đẩy mạnh nghiên cứu thiết kế VKTBKT tích hợp, công nghệ cao và ứng dụng các thành tựu công nghệ thông tin trong thiết kế, ứng dụng các phần mềm hiện đại để tính toán, mô phỏng phục vụ thiết kế, thử nghiệm đánh giá sản phẩm.

Trong thời gian tới, thực hiện các nghị quyết của Đảng về xây dựng và phát triển CNQP theo hướng hiện đại, lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 26/1/2022 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển CNQP đến năm 2030 và những năm tiếp theo, việc đổi mới sáng tạo trong ngành CNQP càng phải được coi trọng hơn nữa. Để đáp ứng những yêu cầu đặt ra và đẩy mạnh đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu KHCN phục vụ sản xuất quốc phòng, góp phần tạo ra các sản phẩm mới có tính đột phá, cần tập trung thực hiện một số nội dung trọng tâm sau:

Một là, đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu thiết kế VKTBKT. Trong đó, cần đổi mới sáng tạo, làm chủ các bài toán thiết kế, chế tạo sản phẩm phù hợp với công nghệ, trang - thiết bị hiện có (công nghệ vật liệu, gia công cơ khí, công nghệ hóa chất, công nghệ nhiệt...), qua đó nhằm đáp ứng các yêu cầu tính năng kỹ - chiến thuật tương đương và hiện đại hơn so với sản phẩm mẫu. Bên cạnh đó, đẩy mạnh nghiên cứu thiết kế VKTBKT tích hợp, công nghệ cao và ứng dụng các thành tựu công nghệ thông tin trong thiết kế, ứng dụng các phần mềm hiện đại để tính toán, mô phỏng phục vụ thiết kế, thử nghiệm đánh giá sản phẩm. Chú trọng ứng dụng tiến bộ KHCN mới trong các lĩnh vực liên quan như công nghệ chíp bán dẫn, công nghệ nano...; đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản, công nghệ nền, công nghệ lõi kết hợp với nghiên cứu ứng dụng. Ngoài ra, nghiên cứu thăm dò nguyên lý để đánh giá tính khả thi, nghiên cứu chế thử mẫu "demo" (mẫu thử nghiệm) sản phẩm để lựa chọn cấu hình phát triển các tính năng mới, làm cơ sở đề xuất mở các chương trình, dự án KHCN. Việc nghiên cứu thiết kế phải đồng bộ, toàn diện, đầy đủ, giải quyết cơ bản vấn đề đặt ra, chế tạo được sản phẩm VKTBKT hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu trang bị cho Quân đội.

Hai là, đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu công nghệ chế tạo VKTBKT. Việc nghiên cứu công nghệ cần đi đôi với chế tạo thiết bị công nghệ. Để chế tạo mỗi chủng loại VKTBKT cần có sự tham gia của nhiều công nghệ đặc thù, từ chế tạo vật tư, nguyên liệu đến công nghệ gia công chế tạo, hoàn thiện, đánh giá, bảo quản, sử dụng... Vì vậy, cần thiết phải tạo ra các công nghệ chuyên dùng, chuyên sâu, đi đôi với nghiên cứu chế tạo các trang - thiết bị công nghệ phụ trợ đi kèm để phục vụ chế tạo, tổng lắp, kiểm tra và thử nghiệm sản phẩm. Đặc biệt, cần tập trung nghiên cứu công nghệ lõi, tập trung vào những công nghệ quyết định đến tính năng và chất lượng của VKTBKT. Việc nghiên cứu công nghệ cần hướng tới áp dụng được vào sản xuất quốc phòng, tăng khả năng sản xuất loạt lớn, kiểm soát chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu độ tin cậy hoạt động cao; đảm bảo môi trường sản xuất và an toàn lao động.

Ba là, đổi mới sáng tạo trong thử nghiệm, đánh giá sản phẩm, đưa vào trang bị với điều kiện hạn chế về không gian trường thử và trang - thiết bị thử nghiệm. Cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ mô phỏng, công nghệ dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI)... trong đánh giá, thử nghiệm VKTBKT để có được các đánh giá dự báo, kết quả sơ bộ chất lượng của sản phẩm, giảm số lượng và chi phí thử nghiệm tại trường bắn, loại bỏ các phép thử không cần thiết, giúp nhanh chóng có được sản phẩm đáp ứng các chỉ tiêu chất lượng đưa vào trang bị. Đồng thời, đẩy mạnh áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế trong thử nghiệm, đánh giá hợp chuẩn hợp quy VKTBKT mới, có tính đến các điều kiện trong nước như thời tiết, khí hậu, trang - thiết bị tương đương... Nâng cao chất lượng sản phẩm làm tiền đề cho xuất khẩu sản phẩm sau khi nghiên cứu, chế tạo thành công; tăng cường đầu tư tiềm lực phòng thí nghiệm, công tác đo lường, tiêu chuẩn, thử nghiệm. Chủ động trong nghiên cứu thiết kế, chế tạo các phương tiện, trang - thiết bị thử nghiệm đặc thù, phi tiêu chuẩn; cải tạo các mẫu VKTBKT đã loại ra khỏi trang bị trở thành các phương tiện thử nghiệm đánh giá chất lượng sản phẩm...

Có thể khẳng định, đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu KHCN phục vụ sản xuất quốc phòng là yêu cầu tất yếu khách quan trong nhiệm vụ xây dựng nền CNQP tự chủ và lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về "đẩy mạnh phát triển CNQP đến năm 2030 và những năm tiếp theo".

Đại tá, TS. NGUYỄN QUANG HUY

Phó Cục trưởng Cục Quản lý công nghệ, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại