Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đều nhấn mạnh việc xây dựng, nhân rộng mô hình khu kinh tế ven biển gắn với hình thành và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh kết hợp tăng cường quốc phòng bảo vệ chủ quyền biển, đảo; mục tiêu đến năm 2030, kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển sẽ chiếm 65% - 70% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cả nước.
Cụ thể hóa Chiến lược biển Việt Nam, ngày 23/9/2008, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1353/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến năm 2020”. Đến nay, 28 địa phương có biển đã xây dựng 18 khu kinh tế ven biển, thu hút 254 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký là 42 tỷ USD và 1.079 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư khoảng 805,2 nghìn tỷ đồng, bước đầu đạt được những kết quả quan trọng, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Việc kết hợp phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển kết hợp với xây dựng khu kinh tế - quốc phòng vùng biển, đảo cũng đã được chú trọng, góp phần vào việc xóa đói, giảm nghèo, củng cố QP, AN... Để kinh tế biển phát triển, chúng ta đã xây dựng được 49 cảng biển, ngoài ra có hệ thống cảng chuyên dùng cho các khu công nghiệp tập trung, khu kinh tế; xây dựng khu neo đậu tránh trú bão cho tàu thuyền; dịch vụ hậu cần nghề cá, kết hợp với xây dựng các căn cứ hậu cần, kỹ thuật ven biển trên đảo, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển…
Nước ta đã xây dựng 18 khu kinh tế ven biển, thu hút 254 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký 42 tỷ USD, 1.079 dự án đầu tư trong nước với số vốn đầu tư khoảng 805,2 nghìn tỷ đồng.
Trong sự phát triển đó có vai trò to lớn của các doanh nghiệp quân đội (DNQĐ) đứng chân trên các địa bàn gắn liền với biển, đảo. Các doanh nghiệp đã và đang phát huy tốt việc kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường tiềm lực QP, AN, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Tiêu biểu là Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn là nhà khai thác cảng biển hàng đầu Việt Nam, có uy tín trong khu vực và thế giới, chiếm 93,6% thị phần container xuất nhập khẩu khu vực thành phố Hồ Chí Minh, 54% thị phần cả nước, Top 20 cụm cảng container lớn và hiện đại nhất thế giới. Tân Cảng Sài Gòn là một DNQĐ điển hình trong chủ động hội nhập và kinh doanh hiệu quả theo hướng “cảng xanh”, “cảng thông minh”, “kho thông minh”... tạo việc làm, thu nhập ổn định cho trên 8.400 người lao động và trên 10.000 người lao động các đơn vị vệ tinh trên địa bàn các tỉnh, thành. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đóng tàu thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng là Tổng công ty Ba Son, Tổng công ty Sông Thu, Nhà máy Z173, Z189... ngoài những bước đột phá về làm chủ công nghệ đóng mới và sửa chữa nhiều gam tàu quân sự hiện đại, trang bị cho các lực lượng quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, còn đóng mới và sửa chữa được rất nhiều chủng loại tàu kinh tế phục vụ trong nước và xuất khẩu.
Cụm cảng Cái Mép – Thị Vải là một trong 19 cảng biển lớn nhất thế giới. Ảnh: CTV
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình phát triển kinh tế biển nói chung, khu kinh tế ven biển nói riêng, việc kết hợp với tăng cường quốc phòng bảo vệ chủ quyền biển, đảo còn một số hạn chế, như: Quá trình khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên biển và ven biển ở nhiều nơi còn lãng phí, kém hiệu quả, đặc biệt là khai thác, sử dụng đất ven biển, ven bờ; chưa chú trọng bảo vệ tài nguyên và môi trường biển; quy mô các khu kinh tế biển còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có… Ngoài ra, kết cấu cơ sở hạ tầng còn chưa đồng bộ, hiện đại, sức cạnh tranh trong khu vực còn thấp, ảnh hưởng đến thu hút đầu tư. Ở một số địa phương, một số ngành chưa thực sự gắn kết phát triển khu kinh tế biển với tăng cường quốc phòng. Một số địa phương trong quá trình xây dựng quy hoạch các khu công nghiệp, khu kinh tế tập trung, các dự án ven biển, trên đảo, chưa chú trọng các phương án xây dựng thế trận quốc phòng, chủ yếu chạy theo lợi ích kinh tế; một số quy hoạch, kế hoạch, nhất là việc xây dựng bến cảng, cơ sở công nghiệp, các khu dịch vụ trên đảo vẫn còn tràn lan, không tuân thủ các nguyên tắc chung... làm ảnh hưởng đến đến thế trận QP, AN, thế trận lòng dân bảo vệ chủ quyển biển, đảo…
Các doanh nghiệp quân đội đứng chân trên các địa bàn gắn liền với biển, đảo có nhiều đóng góp phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Trong thời gian tới, để thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển khu kinh tế ven biển kết hợp với tăng cường quốc phòng bảo vệ chủ quyền biển, đảo, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân về phát triển khu kinh tế ven biển gắn với tăng cường QP, AN. Vấn đề đặt ra đối với công tác tuyên truyền, giáo dục là cần làm cho các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là những địa phương ven biển nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng chiến lược của biển, đảo trong sự phát triển của đất nước; nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm vụ phát triển khu kinh tế ven biển, gắn với tăng cường quốc phòng bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đặc biệt, hướng sự quan tâm về biển, đảo vào thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp, nhất là trong đầu tư nghiên cứu, xây dựng và phát triển các khu kinh tế biển, khu công nghiệp ven biển, trong đó phải chú trọng kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.
Hai là, kết hợp xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển khu kinh tế biển với tăng cường QP, AN. Cần tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh các quy hoạch, chiến lược tổng thể quốc gia và của từng địa phương có biển; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông ven biển kết nối các khu vực nội địa thành một hệ thống liên hoàn gắn với tăng cường củng cố các công trình quốc phòng. Cần có chính sách ưu tiên quy hoạch phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển theo hướng lưỡng dụng, có công nghệ tiên tiến, chú trọng phát triển ngành cơ khí, đóng và sửa chữa tàu… Xác định mục tiêu, phương hướng phát triển và đề ra các chính sách đúng đắn, như: chính sách khai thác các nguồn lực đầu tư, điều động nhân lực, bố trí dân cư, lực lượng quốc phòng cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế biển và chiến lược quốc phòng, phòng thủ biển, đảo.
Ba là, nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn lực cho phát triển khu kinh tế ven biển gắn với tăng cường QP, AN. Cần đầu tư nguồn lực lớn cho các ngành kinh tế mũi nhọn, có thế mạnh, như: đóng và sửa chữa tàu, khai thác dầu khí, chế biến thủy sản, hệ thống cảng và dịch vụ vận tải biển, du lịch... ở các vùng ven biển, đảo. Xây dựng một số trung tâm kinh tế biển mạnh có sức cạnh tranh, hội nhập sâu rộng trong khu vực và quốc tế; các trung tâm dịch vụ ven biển có đủ khả năng vươn xa, kết hợp phát triển kinh tế ven biển với bảo vệ chủ quyền biển, đảo; tập trung nguồn vốn, khoa học - công nghệ, nguồn lao động để khai thác có hiệu quả các tiềm năng của biển; ưu tiên phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội với tăng cường QP, AN ven biển và khu vực quần đảo Trường Sa và các đảo lớn xa bờ. Đồng thời, bảo đảm tốt các vấn đề an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận lòng dân bảo vệ biển, đảo.
Bốn là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật trong việc kết hợp phát triển khu kinh tế ven biển với tăng cường củng cố QP, AN. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đều phải được thể chế hóa thành văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, thống nhất để quản lý và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu lực, hiệu quả trong phát triển khu kinh tế ven biển. Cần thực hiện nghiêm pháp luật, cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến kết hợp phát triển khu kinh tế ven biển với tăng cường củng cố QP, AN, bảo vệ biển, đảo trong tình hình mới.
Năm là, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhất là tăng cường hợp tác liên kết phát triển kinh tế vùng biển, đảo với các nước có thế mạnh, tiềm năng trong khu vực và thế giới, nhằm tạo ra những đối tác đan xen lợi ích; đồng thời, kiên quyết đấu tranh chống xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của nhau. Thu hút và khai thác vốn đầu tư trong xây dựng kết cấu hạ tầng, trang bị công nghệ từ các nước phát triển để thúc đẩy phát triển kinh tế biển, tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia trên trường quốc tế.
Có thể khẳng định, phát triển khu kinh tế ven biển kết hợp xây dựng, củng cố QP, AN không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, mà còn tạo ra và tăng cường thế bố trí chiến lược cả về kinh tế lẫn quốc phòng - an ninh, đối ngoại trên vùng biển, đảo. Qua đó, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước, tăng cường và giữ vững chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Đại tá NGUYỄN ĐÌNH HOÀN & Đại úy, QNCN NGUYỄN THỊ THẮNG