Làm chủ công nghệ lõi phục vụ phát triển công nghiệp quốc phòng

10/3/2023 3:57:25 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 34

CNQP&KT - Công nghệ lõi là những công nghệ cốt lõi để tạo ra một sản phẩm, hướng đến các lĩnh vực công nghệ cao. Phát triển Công nghiệp quốc phòng (CNQP) Việt Nam tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng cần phải làm chủ quá trình nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sản xuất, cải tiến vũ khí trang bị, nhất là tự nghiên cứu, làm chủ công nghệ lõi để phát triển CNQP công nghệ cao.

Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (CNH, HĐH), Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, là một trong 3 khâu đột phá chiến lược. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhanh và bền vững"1. Nghị quyết số 1652-NQ/QUTW ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về “lãnh đạo công tác khoa học quân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo” đã khẳng định: "Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng, cơ sở nghiên cứu, doanh nghiệp quốc phòng; ứng dụng các công nghệ mới, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào nghiên cứu chế tạo, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật, nâng cao chất lượng các sản phẩm quốc phòng, kinh tế. Tích cực, chủ động giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài, nhiệm vụ khoa học - công nghệ để đảm bảo chất lượng và tiến độ theo yêu cầu; đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng thực tiễn. Cụ thể hóa các giải pháp đột phá về khoa học - công nghệ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ về lĩnh vực công nghiệp quốc phòng trong giai đoạn tới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Quân đội".

Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển CNQP là tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, thực sự trở thành bộ phận quan trọng, mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Quán triệt quan điểm này, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đầu tư về nguồn lực, cơ sở vật chất, trang - thiết bị, phòng thí nghiệm cho nghiên cứu khoa học - công nghệ (KHCN), bước đầu đã hình thành các nhóm, mô hình doanh nghiệp quân đội nghiên cứu KHCN. Hoạt động nghiên cứu KHCN được tổ chức tương đối đồng bộ và có bước phát triển mới, giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, từng bước bảo đảm VKTBKT hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của Quân đội và phục vụ dân sinh. Cụ thể, đã thực hiện nghiên cứu theo chiều sâu đạt hiệu quả, làm chủ công nghệ lõi, ứng dụng vào nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sản xuất được nhiều chủng loại vũ khí công nghệ cao; trang - thiết bị phục vụ các lực lượng hải quân, không quân. Bên cạnh đó, các sản phẩm “Make in Vietnam” ngày càng đa dạng, lưỡng dụng, như: máy bay không người lái (UAV), vệ tinh viễn thám, hệ thống mô hình mô phỏng… có tính năng tương đương hoặc ưu việt hơn các sản phẩm cùng loại của nước ngoài. Tiêu biểu như Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel) đã được công nhận 18 sáng chế quốc tế (tại Mỹ), 80 sáng chế trong nước, 19 giải pháp hữu ích, 12 kiểu dáng, ở lĩnh vực quân sự, hạ tầng viễn thông và dân dụng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác nghiên cứu KHCN và làm chủ công nghệ lõi, ứng dụng phát triển CNQP còn có những hạn chế, bất cập, như: Cơ chế chính sách cho hợp tác nghiên cứu, đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực cho nghiên cứu, làm chủ công nghệ còn khó khăn; sản phẩm công nghệ cao còn ít; sản phẩm lưỡng dụng phục vụ dân sinh, xuất khẩu chưa nhiều; nguồn nhân lực chưa đáp ứng được về số lượng, chất lượng. Vì vậy, để làm chủ công nghệ lõi, ứng dụng vào phát triển CNQP công nghệ cao, bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) hiện đại cho Quân đội, cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Điều quan trọng trước hết phải xuất phát từ yếu tố con người đủ năng lực, đủ kiến thức làm chủ công nghệ lõi để tạo ra các sản phẩm tiên tiến, hiện đại. Do vậy, cần quan tâm đầu tư, đào tạo, bồi dưỡng phát triển đồng bộ đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học có trình độ cao, các nhóm nghiên cứu mạnh, chuyên sâu, đội ngũ chuyên gia, kỹ sư giỏi... Đặc biệt, cần đẩy mạnh quá trình đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với các xu thế công nghệ mới, làm chủ công nghệ và tạo ra các sản phẩm công nghệ cao; đồng thời, đa dạng nguồn đào tạo và quy tụ được những người Việt Nam đang định cư, học tập, làm việc cho các hãng công nghệ lớn, có kinh nghiệm về nước và có chính sách để họ gắn bó, cống hiến lâu dài. Cùng với đó, hợp tác với các hãng công nghệ, viện nghiên cứu, trường đại học chia sẻ kinh nghiệm, kết nối với các tri thức của quốc tế.


Để tạo dựng nền móng làm chủ công nghệ lõi cần nguồn nhân lực chất lượng cao. (Trong ảnh: Cán bộ trẻ của Viện Công nghệ, thuộc Tổng cục CNQP, trao đổi phương án thiết kế chế tạo sản phẩm).        Ảnh: HỒNG HẠNH

Hai là, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở nghiên cứu KHCN theo hướng cơ bản, chuyên sâu, gắn nghiên cứu làm chủ công nghệ với sản xuất. 

Cần định hướng cho các học viện, nhà trường hướng về nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu nền; các viện nghiên cứu hướng vào nghiên cứu chuyên sâu, làm chủ công nghệ lõi, ứng dụng vào sản xuất quốc phòng, kinh tế công nghệ cao. Đồng thời, phối hợp với các doanh nghiệp và đơn vị ngoài Quân đội đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ, tiếp thu thành tựu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, cần có cơ chế để các đơn vị ngoài Quân đội nắm bắt thông tin, nhu cầu để hợp tác, tuy nhiên, phải bảo đảm yếu tố bảo mật, giao nhiệm vụ có tính phân đoạn, độc lập, hướng vào thế mạnh của các đơn vị đó. Để nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu làm chủ công nghệ lõi, phát triển, ứng dụng vào thực tiễn, các cơ sở nghiên cứu cần gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động nghiên cứu, ứng dụng KHCN với thiết kế, chế tạo, sản xuất, góp phần tạo sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng, hiệu quả xây dựng, phát triển CNQP, kinh tế công nghệ cao. Để tự chủ về công nghệ, hướng tới mục tiêu lâu dài, cần có những bước đi hết sức bài bản, dành ưu tiên cho lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D);  mở rộng nghiên cứu làm chủ công nghệ lõi lĩnh vực CNQP công nghệ cao sản xuất các loại khí tài “thông minh hơn, chính xác hơn, tin cậy hơn” theo mô hình hệ thống tự động hóa chỉ huy (C5ISR) và làm chủ công nghệ chipset; công nghệ, thiết kế bo mạch trong lĩnh vực điện tử - viễn thông. Đồng thời, vận dụng các công nghệ tiên tiến của thế giới như mô hình mô phỏng, sử dụng hệ thống siêu máy tính để tăng số lần thử nghiệm, rút ngắn quá trình nghiên cứu và tối ưu chi phí.

Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel) đã được công nhận 18 sáng chế quốc tế (tại Mỹ), 80 sáng chế trong nước, 19 giải pháp hữu ích, 12 kiểu dáng, ở lĩnh vực quân sự, hạ tầng viễn thông và dân dụng.

(Nguồn: Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội)

Ba là, tăng cường đầu tư nguồn lực cho nghiên cứu làm chủ công nghệ lõi ứng dụng vào phát triển CNQP.

Trong điều kiện Việt Nam còn nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có sự kết nối hợp tác hỗ trợ, quy tụ sức mạnh từ nhiều nguồn. Cần tập trung đầu tư nguồn lực ưu tiên phục vụ nghiên cứu làm chủ công nghệ lõi thiết kế, chế tạo các sản phẩm quốc phòng, kinh tế công nghệ cao. Cùng với đó, tập trung nguồn lực tài chính cho các nhiệm vụ nghiên cứu đặc thù, đặc biệt là các chương trình, đề án nghiên cứu làm chủ công nghệ lõi trong thiết kế, chế tạo, tích hợp sản xuất VKTBKT công nghệ cao, vũ khí chiến lược, các tổ hợp vũ khí tự động, vũ khí chính xác thế hệ mới. Thu hút, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho KHCN trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, trong đó, doanh nghiệp quốc phòng giữ vai trò trung tâm, các cơ sở nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu phát triển đổi mới sáng tạo. Chỉ có sáng tạo mới có thể làm ra những các sản phẩm quốc phòng, kinh tế chất lượng cao. Điều này đòi hỏi cần phải tạo dựng được môi trường kết nối tốt nhất, có sự chia sẻ nguồn lực, kiến thức, thế mạnh cũng như các kết quả đã làm được. Huy động hiệu quả nguồn lực tài chính Nhà nước và các thành phần kinh tế, đa dạng hóa nguồn lực đầu tư phát triển tiềm lực CNQP, đầu tư nghiên cứu làm chủ công nghệ lõi. Đồng thời, đầu tư xây dựng nền tảng hạ tầng công nghiệp vững chắc bao gồm các hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại, cơ sở sản xuất cần quy hoạch đồng bộ, chuyên nghiệp, thông minh đáp ứng sản xuất lưỡng dụng; từng bước hỗ trợ việc hình thành hệ thống công nghiệp phụ trợ trong nước. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng cho nghiên cứu, sản xuất đồng bộ, hiện đại và nguồn lực mạnh cho phát triển CNQP công nghệ cao; đồng thời, phối hợp với các ban, bộ, ngành trong đầu tư nguồn lực cho nghiên cứu KHCN làm chủ công nghệ lõi cho phát triển CNQP.

Bốn là, mở rộng hợp tác quốc tế nghiên cứu chuyển giao và làm chủ công nghệ lõi phục vụ phát triển CNQP.

Huy động hiệu quả nguồn lực tài chính Nhà nước và các thành phần kinh tế, đa dạng hóa nguồn lực đầu tư phát triển tiềm lực CNQP, đầu tư nghiên cứu làm chủ công nghệ lõi.

Trước hết, cần có cơ chế, chính sách phù hợp để tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác nước ngoài cũng như kết nối với cộng đồng trí thức; tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, mua bán, chuyển giao các sản phẩm KHCN, triển khai mô hình, giải pháp KHCN… Cần phát huy thế mạnh của các đối tác, tận dụng vị trí địa lý để thúc đẩy chuyển giao công nghệ mới; mở rộng hợp tác và tăng cường thu hút nguồn vốn thực hiện các dự án liên kết, xã hội hóa các nguồn lực đầu tư phát triển KHCN đảm bảo đa dạng, đồng bộ cả về chiều rộng và chiều sâu. Tăng cường chuyển giao công nghệ, liên doanh, liên kết, hợp tác cùng nghiên cứu làm chủ công nghệ phát triển CNQP công nghệ cao; hợp tác về đào tạo nhân lực, phát triển thị trường quốc tế và xây dựng thương hiệu; tham gia chuỗi giá trị toàn cầu trong phân công chuyên môn hóa sản xuất, trước hết là các sản phẩm quốc phòng, kinh tế và lưỡng dụng... Tăng cường hợp tác quốc tế về xúc tiến thương mại, triển lãm quốc phòng để quảng bá và xuất khẩu sản phẩm CNQP và kinh tế.

Việc làm chủ công nghệ lõi có vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định trong phát triển nền CNQP Việt Nam tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng; đòi hỏi phải triển khai nhiều giải pháp quyết liệt, nhằm tạo bước tiến vượt bậc về năng lực nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sản xuất, bảo đảm VKTBKT hiện đại, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh trong thời gian tới.

Đại tá NGUYỄN ĐÌNH HOÀN*

Trung tá, TS. TRẦN VĂN NGUYỆN**

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB, Chính trị Quốc gia - Sự thật.

2. Nghị quyết số 1652-NQ/QUTW ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về “lãnh đạo công tác khoa học quân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo”.

* Nguyên cán bộ Viện Chiến lược Quốc phòng.

** Học viện Hậu cần.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại