“Luật hóa” để thúc đẩy phát triển công nghiệp quốc phòng trong tình hình mới

9/26/2024 9:38:47 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 31

CNQP&KT - Nhằm thể chế đầy đủ các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo, ngày 27/6/2024, Quốc hội đã thông qua Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp (Luật số 38/2024/QH15). Việc ban hành Luật sẽ tạo hành lang pháp lý đầy đủ, khả thi, là đòn bẩy vững chắc để đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng trong tình hình mới.

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường như hiện nay; dự báo chiến tranh trong tương lai và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nhanh chóng tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; trong đó, phải xây dựng được tiềm lực về công nghiệp quốc phòng (CNQP) chủ động, tự lực, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng, để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Để đạt được mục tiêu đề ra, trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 26/1/2022 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo, đã xác định nhiệm vụ cần "sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về công nghiệp quốc phòng". Do đó, xây dựng dự án Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp (CNQP, AN và ĐVCN) được xác định là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, có ý nghĩa, tầm quan trọng hết sức to lớn đối với sự nghiệp phát triển CNQP trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.

Trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng; kế hoạch tổ chức, triển khai thực hiện của Bộ Quốc phòng, Tổng cục CNQP với vai trò là Cơ quan Thường trực Ban soạn thảo Luật đã tập trung mọi nguồn lực hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao. Theo đó, ngày 27/6/2024, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật CNQP, AN và ĐVCN với tỷ lệ 100% đại biểu có mặt tán thành (464/464). Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, các cơ quan thuộc Quốc hội và Chính phủ đều ghi nhận, đánh giá cao sự tích cực, chủ động chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng của Cơ quan Thường trực Ban soạn thảo trong suốt quá trình xây dựng Luật. Việc Luật CNQP, AN và ĐVCN được Quốc hội thông qua là một sự kiện đặc biệt, đánh dấu lần đầu tiên các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển CNQP, AN và ĐVCN được thể chế hóa trong một đạo luật riêng.


100% đại biểu Quốc hội có mặt tại Hội trường nhất trí thông qua Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Ảnh: CTV

Luật CNQP, AN và ĐVCN bao gồm 7 chương, 86 điều đề cập toàn diện đến 3 lĩnh vực là CNQP, công nghiệp an ninh (CNAN) và ĐVCN. Nội dung của Luật tập trung vào 5 chính sách nổi bật, bao gồm: phát triển CNQP, AN theo hướng lưỡng dụng, huy động sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong hoạt động CNQP, AN; hoàn thiện, sắp xếp, đổi mới hệ thống tổ chức CNQP, CNAN; thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ phục vụ phát triển CNQP, AN; huy động nguồn lực cho CNQP, AN và ĐVCN; mở rộng đối tượng, hoàn thiện phương thức thực hiện ĐVCN.

Đặc biệt, Luật đã có 39 cơ chế, chính sách đặc thù để xây dựng, phát triển CNQP, AN và ĐVCN, trong đó có 15 cơ chế, chính sách pháp luật chưa quy định; 3 cơ chế, chính sách phát triển hơn so với pháp lệnh hoặc luật hóa một số nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của Chính phủ; 21 cơ chế, chính sách quy định vượt trội so với các luật hiện hành. Trong đó có một số nội dung nổi bật, như:

Thứ nhất, quy định về giao nhiệm vụ, đặt hàng, đấu thầu sản xuất sản phẩm quốc phòng. Mặc dù Luật Đấu thầu đã có quy định về giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước, tuy nhiên, sản phẩm, dịch vụ quốc phòng là sản phẩm đặc thù, không phải sản phẩm, dịch vụ công. Do đó, Luật CNQP, AN và ĐVCN đã quy định về hoạt động giao nhiệm vụ, đặt hàng, đấu thầu sản xuất sản phẩm quốc phòng và tách bạch rõ các trường hợp giao nhiệm vụ, trường hợp đặt hàng, trường hợp đấu thầu đối với cơ sở CNQP do Bộ Quốc phòng quản lý để đảm bảo tính toàn diện, bao quát của hệ thống pháp luật và tạo sự minh bạch, chặt chẽ trong quá trình thực hiện.


Các đại biểu Quốc hội ấn nút thông qua Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp.       Ảnh: PHƯƠNG ANH

Thứ hai, về nguồn lực tài chính cho CNQP, AN. Luật đã đề ra một số quy định đặc thù về nguồn lực tài chính cho CNQP, như: Hình thành Quỹ CNQP, AN; ưu tiên phân bổ nguồn lực trong kế hoạch tài chính; sử dụng lợi nhuận sau thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơ sở CNQP nòng cốt; chuyển nguồn ngân sách đến khi nghiệm thu, thanh lý hợp đồng hoặc kết thúc nhiệm vụ đối với ngân sách mua sắm, sản xuất sản phẩm vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) có ý nghĩa chiến lược chưa sử dụng hết... Những quy định này đều nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo nguồn lực tài chính ổn định để thúc đẩy phát triển của CNQP trong tình hình mới.

Luật CNQP, AN và ĐVCN gồm 7 chương: Chương I "Những quy định chung"; Chương II "CNQP, AN"; Chương III "Động viên công nghiệp"; Chương IV "Chế độ, chính sách trong CNQP, AN và ĐVCN"; Chương V "Hợp tác quốc tế và thương mại quốc tế về CNQP, AN"; Chương VI "Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về CNQP, AN và ĐVCN; Chương VII "Điều khoản thi hành".

(Nguồn: Văn phòng Quốc hội)

Thứ ba, về hệ thống và tổ chức của cơ sở CNQP và tổ hợp CNQP. Để thể chế Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 26/1/2022 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển CNQP đến năm 2030 và những năm tiếp theo, theo đó cần "tổ chức lại các cơ sở CNQP nòng cốt, tiến tới thành lập tổ hợp CNQP bảo đảm tinh, gọn, mạnh, hiệu quả, tiên tiến, hiện đại", Luật quy định hệ thống cơ sở CNQP bao gồm 4 thành phần và quy định rõ về tiêu chí, loại hình, hoạt động của cơ sở CNQP nòng cốt. Đồng thời, bước đầu quy định về tổ hợp CNQP, trong đó xác định tổ hợp CNQP không hình thành pháp nhân, mà được xác định là hệ thống liên kết, hợp tác của các cơ sở CNQP, tổ chức, doanh nghiệp đáp ứng điều kiện nhất định, lấy cơ sở CNQP nòng cốt làm trung tâm, hạt nhân của tổ hợp.

Thứ tư, về chính sách đối với cơ sở CNQP nòng cốt; chế độ, chính sách đối với người lao động tại cơ sở CNQP nòng cốt, Luật đã tách bạch rõ chế độ, chính sách đối với cơ sở CNQP nòng cốt là doanh nghiệp và không phải là doanh nghiệp; tương tự, đối với người lao động tại các cơ sở này cũng phân tách rõ đối tượng tại các cơ sở CNQP nòng cốt là doanh nghiệp và không phải là doanh nghiệp để quy định những cơ chế, chính sách phù hợp với đặc thù, tính chất của từng loại hình, đối tượng.


Thủ trưởng Tổng cục CNQP và đại diện một số cơ quan Tổng cục tham dự phiên họp Quốc hội thông qua Luật CNQP, AN và ĐVCN.       Ảnh: PHƯƠNG MAI

Thứ năm, về cơ chế, chính sách đặc thù đối với hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ CNQP. Mặc dù hoạt động khoa học và công nghệ được thực hiện theo quy định của Luật Khoa học và công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Công nghệ cao, Luật Đấu thầu... nhưng còn nhiều bất cập khi áp dụng cho nghiên cứu, thiết kế, chế tạo mới VKTBKT (như: Cơ chế mua sắm vật tư đặc chủng trong hoạt động khoa học và công nghệ theo Luật Đấu thầu khó thực hiện; quy trình, thủ tục thanh toán đối với đề tài rất phức tạp và mất nhiều thời gian...). Do đó, Luật đã quy định các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tạo hành lang pháp lý giải quyết những bất cập, tạo đột phá, đẩy nhanh quá trình từ nghiên cứu đến đưa sản phẩm vào trang bị cho các lực lượng; tập trung trên các mặt: Tự chủ tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ được giao; được lựa chọn áp dụng khoán chi đến sản phẩm cuối cùng; được miễn trách nhiệm dân sự khi thực hiện hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ sản xuất quốc phòng, an ninh theo nhiệm vụ được giao do nguyên nhân khách quan...

Thứ sáu, về hợp tác quốc tế và thương mại quốc tế về CNQP, AN. Trong những năm qua, hợp tác quốc tế và thương mại quốc tế trong lĩnh vực CNQP luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm và được đẩy mạnh theo hướng phát triển sâu rộng cả về phạm vi và mức độ hợp tác, đóng góp hiệu quả vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, góp phần giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật quy định nội dung này chỉ có ở các nghị định và thông tư. Do vậy, Luật đã có 1 chương quy định về hợp tác quốc tế và thương mại quốc tế về CNQP, AN với các nội dung nổi bật như: Cơ sở CNQP nòng cốt, cơ sở CNAN nòng cốt được liên doanh, liên kết với tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp nước ngoài để thực hiện nhiệm vụ của CNQP; sản phẩm, dịch vụ nhập khẩu phục vụ CNQP, AN được miễn thuế nhập khẩu, miễn thuế giá trị gia tăng theo quy định của pháp luật; cơ sở CNQP do Bộ Quốc phòng quản lý tiếp nhận chuyển giao công nghệ được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật; miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai...

Luật CNQP, AN và ĐVCN có 39 cơ chế, chính sách đặc thù, trong đó có 15 cơ chế, chính sách pháp luật chưa quy định; 3 cơ chế, chính sách phát triển hơn so với pháp lệnh hoặc luật hóa một số nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của Chính phủ; 21 cơ chế, chính sách quy định vượt trội so các luật hiện hành.

Có thể nói, với những chính sách đặc thù được xây dựng nhằm thúc đẩy sự phát triển của CNQP nước ta cả trước mắt và lâu dài, Luật CNQP, AN và ĐVCN, hướng tới đạt được các mục tiêu chung đối với CNQP. Cụ thể như sau:

Một là, thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, khắc phục sự mâu thuẫn và nâng cao hiệu quả pháp lý của hệ thống pháp luật về CNQP theo hướng đổi mới, thiết thực, hiệu quả, khả thi; tạo bước đột phá cho phát triển và nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ CNQP trong thời gian tới.

Hai là, góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý cho các hoạt động CNQP, giải quyết những khó khăn, vướng mắc đang gặp phải trong thực tiễn, đặc biệt là tháo gỡ các rào cản pháp lý liên quan đến tài chính, khoa học và công nghệ. Đồng thời, có những chính sách nhằm xây dựng, gìn giữ nguồn nhân lực để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm quốc phòng; nâng cao năng lực nghiên cứu làm chủ một số công nghệ mới, kịp thời thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đẩy mạnh phát triển CNQP kết hợp với phục vụ kinh tế quốc dân.

Ba là, phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ của CNQP trong đảm bảo VKTBKT cho lực lượng vũ trang nhân dân; đổi mới, sắp xếp hệ thống cơ sở CNQP phù hợp với đặc thù ngành, lĩnh vực và gắn với tổ chức, nhiệm vụ, phương thức tác chiến của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, hội nhập toàn cầu; bảo đảm tập trung, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước.

Bốn là, xây dựng và phát triển CNQP theo hướng tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, thực sự trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; đạt trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại, đủ năng lực nghiên cứu, sản xuất các loại vũ khí công nghệ cao, VKTBKT có ý nghĩa chiến lược phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trước mắt và lâu dài, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

CNQP là lĩnh vực đặc thù, nhìn vào các cuộc xung đột gần đây trên thế giới chúng ta càng thấy rõ điều đó. Quốc gia nào nắm trong tay nền CNQP phát triển hơn sẽ có lợi thế khi chiến tranh, xung đột xảy ra. Chúng ta không mong đợi chiến tranh nhưng phải có sự chuẩn bị phù hợp cho mọi tình huống. Đặc biệt, khi chiến tranh hiện đại đã có sự thay đổi đáng kể về chiến thuật và công nghệ vũ khí, càng đặt ra yêu cầu cấp thiết là cần nhanh chóng đẩy mạnh phát triển CNQP. Do đó, khi Luật CNQP, AN và ĐVCN có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025 sẽ là cú huých mạnh mẽ thúc đẩy phát triển CNQP trong tình hình mới, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, theo định hướng chiến lược của Đảng "giữ nước từ khi nước chưa nguy".

Đại tá, TS. PHAN THỊ HOÀI VÂN

Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Công nghiệp quốc phòng

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại