Đặc trưng quan trọng nhất của VLNCN là khả năng công phá, phá hủy kết cấu vật chất với mức độ nguy hiểm cao; một số chủng loại VLNCN dễ chế tạo thủ công, tiềm ẩn nguy cơ sử dụng trái pháp luật, có thể gây ra hậu quả khó lường, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Chính vì vậy, Nhà nước độc quyền sản xuất, kinh doanh các sản phẩm này. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhu cầu sử dụng VLNCN ngày càng gia tăng. Tính đến nay, có trên 2.000 tổ chức tiến hành các hoạt động sử dụng VLNCN với đặc thù sử dụng và quy mô đa dạng: Nhiều nhất là hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản (than, kim loại, dầu khí, vật liệu xây dựng thông thường...), cho đến hoạt động thi công xây dựng công trình (trên mặt đất, dưới mặt đất, dưới nước, thềm lục địa...), rà phá, xử lý bom mìn sau chiến tranh... Do đó, công tác quản lý VLNCN đòi hỏi ngày càng phải được quản lý chặt chẽ.
Sự gia tăng mạnh mẽ của việc sử dụng và kéo theo sự mở rộng quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh VLNCN trong thời gian vừa qua đã đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế đất nước. Với tầm quan trọng của VLNCN, Nhà nước ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động VLNCN trên nhiều khía cạnh khác nhau, liên quan đến nhiều bộ, ngành trong quản lý nhà nước và tổ chức, cá nhân trong sản xuất, kinh doanh, bảo quản, vận chuyển và sử dụng. Trong đó, với vai trò là một đầu mối quản lý nhà nước về VLNCN, Bộ Quốc phòng đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và quy định cụ thể hoạt động VLNCN gắn với đặc thù, lĩnh vực hoạt động của cơ quan, đơn vị trong toàn quân. Công tác quản lý hoạt động VLNCN đã có nhiều chuyển biến tích cực đi vào nền nếp, góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống cháy nổ, an toàn lao động; bảo đảm cho Quân đội thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ quốc phòng, kinh tế.

Sản xuất thuốc nổ công nghiệp tại Nhà máy Z131.
Tuy nhiên, qua kiểm tra công tác sử dụng VLNCN ở các đơn vị trong toàn quân còn tồn tại một số vần đề: Việc quán triệt và chấp hành của các tổ chức hoạt động VLNCN còn hạn chế do hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật dàn trải, nhiều sửa đổi; yêu cầu về trình độ chuyên môn, tiêu chuẩn chính trị rất chặt chẽ; nhiều thủ tục hành chính phức tạp, chồng chéo, tốn kém thời gian, chi phí. Các tổ chức tham gia hoạt động VLNCN chưa chấp hành triệt để các quy định; đặc biệt là số hộ sử dụng VLNCN với quy mô nhỏ, lẻ, số lượng ít (nhất là các đơn vị sử dụng VLNCN ở vùng sâu, vùng xa) chưa chú trọng công tác bảo đảm an ninh, an toàn như: Công tác tuyển dụng, ký kết hợp đồng lao động chưa chặt chẽ (có đơn vị sử dụng lao động thời vụ để thực hiện vận chuyển, sử dụng VLNCN); việc xây dựng phương án bảo vệ an ninh trật tự đối với kho VLNCN còn hình thức, nội dung sơ sài; công tác canh gác, bảo vệ còn lỏng lẻo; hệ thống hạ tầng kho VLNCN chưa đảm bảo yêu cầu bảo vệ theo tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện hành (cửa, khoá, hàng rào, cổng gác, chòi gác); có đơn vị, doanh nghiệp chưa chú trọng đến công tác phối hợp, hiệp đồng trong bảo đảm an ninh trật tự, phòng cháy, chữa cháy với cấp ủy, chính quyền địa phương nơi có kho VLNCN; công tác huấn luyện thực hành ứng phó, xử lý các tình huống khẩn cấp trong bảo quản, vận chuyển VLNCN còn nhiều thiếu sót, bất cập; công tác quản lý số lượng, chất lượng và thủ tục giao nhận VLNCN có nội dung còn chưa chặt chẽ, đặc biệt là kiểm soát VLNCN tại khai trường, công trường.
Những hạn chế nêu trên tiềm ẩn các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến các mặt an ninh chính trị, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội nếu bị mất cắp, thất thoát; đặc biệt trong bối cảnh hiện nay đang có chiều hướng gia tăng về nguy cơ bạo lực, khủng bố, bất ổn về tình hình an ninh khu vực và quốc tế, tranh chấp lãnh thổ. Thực tế những năm qua, toàn quân vẫn còn để xảy ra tình trạng mất cắp, rơi vãi phụ kiện nổ, thuốc nổ; mất an toàn trong bảo quản, sử dụng gây thiệt hại về người và tài sản.
Trên cơ sở đánh giá tình hình hoạt động VLNCN những năm gần đây; tiếp thu những kiến nghị, đề xuất của các đơn vị quản lý, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, sử dụng VLNCN, với mục tiêu xây dựng ngành VLNCN trong Quân đội đáp ứng tốt nhất nhu quốc phòng, an ninh gắn với phát triển kinh tế - xã hội; trong đó, phải đảm bảo an ninh, an toàn tuyệt đối trong sử dụng VLNCN, cơ quan, đơn vị cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
Một là, thường xuyên cập nhật, quán triệt và thực hiện tốt các quy định mới về VLNCN; đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để tham mưu, đề xuất với Nhà nước, Bộ Quốc phòng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về sản xuất, kinh doanh, bảo quản, vận chuyển và sử dụng VLNCN nhằm đơn giản hóa, tiện lợi cho đơn vị, doanh nghiệp áp dụng nhưng vẫn chặt chẽ, đảm bảo an ninh, an toàn.
Hai là, thực hiện tốt công tác tuyển dụng và sử dụng lao động theo quy định. Trong đó, chú trọng công tác thẩm định tiêu chuẩn chính trị trước khi ký kết hợp đồng lao động; thường xuyên rà soát chính trị nội bộ đối với các đối tượng liên quan đến hoạt động VLNCN; tập trung các đối tượng như: Thủ kho, bảo vệ, thợ mìn, lái xe, áp tải. Không sử dụng lao động thời vụ tham gia hoạt động VLNCN. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và giáo dục chính trị cho các đối tượng liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo quản, vận chuyển và sử dụng VLNCN nhằm nâng cao trách nhiệm, tinh thần cảnh giác chống mất cắp và các âm mưu phá hoại ảnh hưởng phức tạp đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Ba là, bảo đảm chất lượng, nội dung và thực hiện chặt chẽ, có hiệu quả phương án bảo vệ an ninh trật tự đối với kho VLNCN; tăng cường lực lượng (con người, vũ khí, công cụ hỗ trợ) để thực hiện chế độ canh gác, bảo vệ và xử lý các tình huống. Thực hiện tốt việc phối hợp giữa cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp với cấp ủy, chính quyền và cơ quan chức năng trên địa bàn trong xây dựng phương án bảo vệ, phòng ngừa, ứng phó các sự cố khẩn cấp đối với kho, phương tiện vận chuyển VLNCN.
Bốn là, chú trọng đầu tư, sửa chữa nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà kho, xưởng, phương tiện, trang bị kỹ thuật đáp ứng yêu cầu bảo đảm về an ninh trật tự; lập lý lịch đầy đủ theo quy định. Trong đó, coi trọng việc củng cố hệ thống kho và phương tiện vận chuyển VLNCN như: Hàng rào, mái, nền, cửa chính, cửa sổ, thông gió, khóa, cổng gác, khung mui, lưới chống trộm theo hướng nhiều lớp, chắc chắn, kín khít; đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện hành; chống xâm nhập trái phép, chống mối mọt, côn trùng; tăng cường hệ thống chiếu sáng ban đêm; bổ sung hệ thống kiểm soát báo động (kẻng, còi, loa, điện thoại), giám sát từ xa như camera an ninh nhằm giảm thiểu các nguy cơ mất cắp VLNCN.
Năm là, thực hiện phân loại, sắp xếp VLNCN khoa học theo nhóm, bảo đảm dễ thấy, dễ lấy, dễ kiểm tra, dễ thao tác bảo quản, xuất nhập; chấp hành nghiêm chế độ đăng ký, thống kê, xuất - nhập; vận chuyển và giao - nhận VLNCN bảo đảm chặt chẽ, đầy đủ các yếu tố pháp lý như: Chủng loại, số lượng VLNCN; họ và tên, chức vụ, chữ ký những người liên quan; con dấu, dấu giáp lai và chữ ký người đại diện pháp nhân (hoặc người chỉ huy cơ quan, đơn vị) và được cơ quan có thẩm quyền kiểm tra cho phép đưa vào sử dụng. Tăng cường các thiết bị giám sát, hỗ trợ trong hoạt động vận chuyển như: Hệ thống giám sát hành trình; định vị vệ tinh. Chỉ thực hiện vận chuyển VLNCN theo mệnh lệnh do cơ quan có thẩm quyền cấp; có đủ người áp tải và được trang bị công cụ hỗ trợ khi vận chuyển, cùng với người điều khiển chịu trách nhiệm bảo vệ VLNCN trong suốt quá trình vận chuyển.
Sáu là, các đơn vị kinh doanh chỉ được bán VLNCN có trong Danh mục VLNCN được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng tại Việt Nam cho các đơn vị, doanh nghiệp có giấy phép sử dụng VLNCN còn thời hạn do cơ quan có thẩm quyền cấp; chỉ bán đúng số lượng, chủng loại ghi trong giấy phép. Các đơn vị, doanh nghiệp sử dụng chỉ được mua VLNCN theo giấy phép sử dụng và sử dụng đúng chủng loại, số lượng, mục đích địa điểm theo giấy phép. Cơ quan quản lý hoạt động VLNCN cần tăng cường kiểm tra hoạt động mua bán giữa tổ chức được phép kinh doanh và tổ chức được phép sử dụng VLNCN.
Bảy là, tăng cường các biện pháp quản lý, kiểm soát chặt chẽ đường đi của VLNCN, từ vật tư đầu vào, nguyên liệu cho đến đầu ra tiêu thụ, sử dụng sản phẩm; kể cả với tiền chất thuốc nổ và tài liệu kỹ thuật liên quan đến VLNCN, nhất là các tài liệu về quy trình công nghệ chế tạo VLNCN. Tập trung kiểm soát chặt chẽ các khâu: Tiếp nhận, bàn giao, xuất nhập kho, vận chuyển (trong đó có vận chuyển bằng phương tiện giao thông cơ giới và vận chuyển thô sơ, vận chuyển nội bộ), nạp mìn, đấu nối phụ kiện nổ, xử lý mìn câm...
Tám là, các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, cơ quan quản lý trực tiếp các doanh nghiệp, đơn vị có hoạt động VLNCN cần thường xuyên tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phối hợp thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh và xử lý nghiêm các vi phạm trong sản xuất, kinh doanh, bảo quản, vận chuyển và sử dụng VLNCN; kịp thời báo cáo Bộ Quốc phòng khi có các sự cố xảy ra để chỉ đạo giải quyết, điều tra, xử lý.
Thực tiễn công tác quản lý VLNCN rất rộng và phức tạp; trong xu thế chủ động hội nhập, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, khu vực và trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế liên quan đến vật liệu nổ; đồng thời, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn các hành vi sản xuất, mua bán, tàng trữ, sử dụng, vận chuyển trái phép VLNCN thì công tác đảm bảo an ninh an toàn trong hoạt động VLNCN đòi hỏi phải được kiểm soát và quản lý chặt chẽ, bảo đảm an ninh, trật tự và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thượng tá Dương Ngọc Thanh
Trưởng phòng Bảo vệ an ninh - Tổng cục CNQP