Quản lý vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt và đảm bảo an toàn trong Tổng cục Công nghiệp quốc phòng

12/1/2017 8:15:24 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 69

(CNQP&KT) - Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (CNQP) hiện đang quản lý một số lượng lớn vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT).

Để thực hiện và hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Tổng cục là sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị, vật tư kỹ thuật và tàu thuyền quân sự cho các lực lượng vũ trang thì công tác quản lý VKTBKT và bảo đảm an toàn có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần vào ổn định và phát triển CNQP. Trong những năm qua, việc thực hiện tốt Cuộc vận động “Quản lý vũ khí trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông” (gọi tắt là CVĐ 50) do Bộ Quốc phòng phát động chính là động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý VKTBKT và bảo đảm an toàn sản xuất trong Tổng cục CNQP.


Diễn tập phòng cháy, chữa cháy tại Kho K602.       Ảnh: Thanh Tùng

Đối với công tác quản lý VKTBKT, trên cơ sở các văn bản của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Ban chỉ đạo 50 và các cơ quan đã tham mưu cho Thủ trưởng Tổng cục ban hành các văn bản quản lý như: Quy định quản lý sản xuất quốc phòng (SXQP); Quy định quản lý vũ khí, đạn dược và công cụ hỗ trợ; Quy định quản lý thiết bị sản xuất; Quy chế kiểm tra chất lượng sản phẩm quốc phòng; Quy định quản lý công tác vật tư SXQP; Quy định quản lý thiết kế sản phẩm quốc phòng; Quy định giám định chất lượng hàng hóa mua sắm, nhập khẩu, v.v. Công tác quản lý VKTBKT của Tổng cục đã thành nền nếp, thực hiện có hiệu quả trên tất cả các ngành tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, nổi bật như: Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng; đầu tư củng cố nâng cấp các hạng mục công trình nhà kho, nhà xưởng, trung tâm nghiên cứu, giảng dạy; quản lý số VKTBKT hiện có, số tăng thêm do đầu tư mua sắm, chế tạo, số giảm do loại khỏi trang bị, xử lý cấp 5. Đồng thời, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), tiêu chuẩn ISO trong quản lý VKTBKT và hệ thống định vị GPS trong quản lý phương tiện vận tải, v.v. Nhờ thực hiện tốt các nội dung nêu trên, Tổng cục đã quản lý tốt số lượng, chất lượng, tình trạng đồng bộ VKTBKT, không để xảy ra mất mát, thất thoát.

Đối với công tác bảo đảm an toàn trong sản xuất, các đơn vị trong Tổng cục có tính đa dạng về công nghệ và loại hình sản xuất, liên quan đến nhiều ngành kỹ thuật và nhiều lĩnh vực có yếu tố nguy hiểm (cháy, nổ vật lý và hóa học; va đập, rơi đổ, ngã, sập; điện giật; nhiệt độ cao, ngạt khí…), các yếu tố có hại (hóa chất độc; tiếng ồn, bụi; bức xạ, phóng xạ…) và yếu tố gây mất an toàn về môi trường. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác bảo đảm an toàn trong sản xuất, Đảng ủy Tổng cục đã ban hành Nghị quyết số 195-NQ/ĐU ngày 8/7/2016 về “Lãnh đạo công tác bảo đảm an toàn trong sản xuất” (gọi tắt là Nghị quyết 195). Trong đó, đã đánh giá những ưu điểm đạt được trong công tác bảo đảm an toàn như: Công tác bảo đảm an toàn sản xuất được xác định là nhiệm vụ quan trọng nhất tại các đơn vị; ý thức của cán bộ, công nhân viên về công tác bảo đảm an toàn sản xuất được nâng cao. Một số dây chuyền sản xuất đã được đầu tư công nghệ mới, nâng cao khả năng bảo đảm an toàn; thường xuyên tổ chức rà soát, chấn chỉnh công tác bảo đảm an toàn, phòng chống cháy nổ, tai nạn lao động. Nhiều công trình, hệ thống thiết bị bảo đảm an toàn trong sản xuất đã được củng cố, nâng cấp. Đã xây dựng được hệ thống các quy định bảo đảm an toàn sản xuất tương đối đồng bộ, bước đầu áp dụng đạt kết quả tốt. Số vụ việc mất an toàn lao động, sự cố cháy nổ, sự cố hóa chất, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng giai đoạn 2011-2015 so với giai đoạn 2006-2010 đã giảm đáng kể (số vụ tai nạn lao động giảm 78%; sự cố cháy nổ giảm 80%).

Trong hai năm 2016 và 2017, Tổng cục đã tổng kiểm tra, rà soát công tác bảo đảm an toàn để phát hiện và khắc phục các tồn tại; rà soát, hoàn thiện các văn bản quản lý, quy định về an toàn; lập kế hoạch đầu tư, củng cố hệ thống bảo đảm an toàn; đề xuất các đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ về an toàn và môi trường; kiện toàn đội ngũ, cơ chế quản lý và huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động.


Diễn tập phòng, chống cháy nổ, di chuyển tài sản tại Nhà máy Z131.      Ảnh: Kim Thanh

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, công tác quản lý VKTBKT và bảo đảm an toàn trong Tổng cục CNQP vẫn còn những khó khăn, tồn tại nhất định. Trong đó, công tác quản lý VKTBKT còn gặp khó khăn về kỹ thuật và kinh phí trong bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa số thiết bị, dây chuyền có tiếp xúc với hóa chất, ăn mòn cao, các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động đặc thù SXQP và các thiết bị công nghệ cao, thiết bị đặc chủng. Vẫn còn một số thiết bị - công nghệ, dây chuyền sản xuất đã lạc hậu, xuống cấp do sử dụng lâu năm chưa được đầu tư, cải tạo, nâng cấp kịp thời. Các đơn vị trực thuộc Tổng cục đóng quân trên nhiều vùng miền đất nước, quản lý nhiều phương tiện giao thông, có phương tiện cơ giới vận chuyển hàng nguy hiểm và lượng xe máy cá nhân tham gia giao thông lớn, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông cao. Công tác bảo đảm an toàn gặp nhiều khó khăn trong việc bảo đảm vành đai an toàn các kho đạn dược, vật liệu nổ, nhà máy sản xuất đạn dược, vật liệu nổ theo Nghị định 148/2006/NĐ-CP ngày 4/12/2006 của Chính phủ. Một số người lao động còn có lúc chưa chấp hành nghiêm các quy định, quy tắc về công tác bảo đảm an toàn trong sản xuất. Hệ thống trang thiết bị bảo đảm an toàn, phòng chống cháy nổ tuy đã được củng cố nhưng vẫn cần tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện. Một số nguyên công, công đoạn sản xuất đặc biệt nguy hiểm vẫn phải thao tác trực tiếp, thủ công, chưa được cơ khí hóa, tự động hóa, điều khiển từ xa, làm ảnh hưởng đến tâm lý của người lao động khi làm việc…

Trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý VKTBKT và bảo đảm an toàn, các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục phát huy các kết quả đạt được, khắc phục các tồn tại, hạn chế để phấn đấu hoàn thành xuất sắc mục tiêu, phương hướng, kế hoạch thực hiện CVĐ 50 giai đoạn 2015-2020, trong đó xác định những nội dung nhiệm vụ, giải pháp quản lý tốt VKTBKT và bảo đảm an toàn như sau:

Một là, về công tác quản lý VKTBKT: Thực hiện nghiêm các chỉ thị của Bộ Quốc phòng về quản lý chống mất cắp VKTBKT; Chỉ thị về quản lý, sử dụng vũ khí, đạn sẵn sàng chiến đấu ở trạng thái thường xuyên; Công tác kiểm kê hằng năm và các quy định về quản lý, sử dụng VKTBKT của Tổng cục. Quản lý chặt chẽ VKTBKT theo từng cơ sở SXQP, từng dây chuyền sản xuất và từng chủng loại sản phẩm; duy trì và phát triển năng lực SXQP; tính đồng bộ về công suất, độ chính xác và bố trí hợp lý theo yêu cầu của quá trình công nghệ; chú trọng đổi mới công nghệ, cải tiến, nâng cấp, hiện đại hoá thiết bị.

Trong quản lý, phòng ngừa hư hỏng là chính; thực hiện tốt chế độ bảo quản, bảo dưỡng kỹ thuật và sửa chữa dự phòng. Thực hiện chế độ kiểm tra, kiểm định các VKTBKT có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động; chế độ kiểm định, hiệu chuẩn các phương tiện đo lắp đặt trên VKTBKT. Tiếp tục rà soát, đề nghị cấp có thẩm quyền kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ quản lý VKTBKT; bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống sổ sách, mẫu biểu và ứng dụng CNTT, tiêu chuẩn ISO để nâng cao chất lượng quản lý VKTBKT. Thực hiện nghiêm quy định pháp luật về kiểm tra, nghiệm thu VKTBKT khi được đầu tư, mua sắm, thiết kế chế tạo đưa vào sử dụng.

Hai là, về công tác bảo đảm an toàn: Tổ chức thực hiện các nội dung đã xác định trong nghị quyết và các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 195 của Đảng ủy Tổng cục CNQP về “Lãnh đạo công tác bảo đảm an toàn trong sản xuất”. Xác định rõ các nội dung trọng tâm, nhiệm vụ cụ thể, thời gian, tiến độ hoàn thành và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị bảo đảm tổ chức triển khai Nghị quyết 195 kịp thời, đồng bộ, thống nhất và hiệu quả cao.

Thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về công tác an toàn - vệ sinh lao động - phòng chống cháy nổ. Rà soát, củng cố bộ máy làm công tác an toàn, hội đồng bảo hộ lao động, mạng lưới an toàn, vệ sinh viên. Tổ chức tập huấn, huấn luyện, hội thao, hội thi, diễn tập phương án phòng ngừa ứng phó sự cố cháy nổ, đổ sập công trình. Thực hiện chế độ kiểm tra, thanh tra công tác an toàn - vệ sinh lao động - phòng chống cháy nổ theo quy định. Trong đó, đặc biệt chú ý tổ chức khắc phục các tồn tại sau đợt tổng rà soát công tác bảo đảm an toàn vừa qua, báo cáo cấp có thẩm quyền những nội dung tồn tại về an toàn, phòng chống cháy nổ vuợt quá khả năng của đơn vị và Tổng cục.

Ngoài ra, cần thực hiện đúng các nội dung quy định pháp luật về CNTT, phấn đấu không để xảy ra mất an toàn trong khai thác hệ thống CNTT. Bên cạnh đó, tiếp tục quán triệt thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Ủy ban An toàn giao thông quốc gia và Tổng cục CNQP về công tác đảm bảo trật an toàn giao thông; phấn đấu giảm số vụ tai nạn giao thông hằng năm, không để xảy ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng do lỗi chủ quan.

Có thể nói, quản lý tốt VKTBKT và bảo đảm an toàn sẽ góp phần quan trọng vào việc hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Tổng cục CNQP. Các cơ quan, đơn vị trong Tổng cục cần nỗ lực nhiều hơn nữa để khắc phục triệt để các tồn tại, hạn chế, hoàn thành xuất sắc kế hoạch đề ra trong thực hiện quản lý tốt VKTBKT và bảo đảm an toàn, góp phần xây dựng và phát triển ngành CNQP Việt Nam ngày càng vững mạnh.

Đại tá Bùi Ngọc Hưng

Phó Cục trưởng Cục Quản lý công nghệ - Tổng cục CNQP

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại