Những chủ trương, định hướng trong Nghị quyết là “kim chỉ nam” giúp các đơn vị tìm được lời giải đúng cho "bài toán" phát triển kinh tế của đơn vị mình.
Cùng với nhiệm vụ sản xuất quốc phòng, mục tiêu phát triển kinh tế đã sớm được các đơn vị trong Tổng cục CNQP coi trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những đơn vị có thế mạnh trong sản xuất kinh tế, cũng còn có đơn vị tỷ trọng sản phẩm kinh tế thấp, chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất quốc phòng, khi nhiệm vụ quốc phòng giảm hoặc giao chậm thường khó khăn trong bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các đơn vị trong Tổng cục là phải phát triển vững chắc bằng cả “hai chân” quốc phòng và kinh tế, trong đó phát triển kinh tế chính là để tạo việc làm, ổn định đời sống cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên, góp phần duy trì năng lực sản xuất quốc phòng, đồng thời tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế, ngày 27/12/2012, Đảng ủy Tổng cục CNQP đã ban hành Nghị quyết số 383-NQ/ĐU về “Lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế đến năm 2015 và những năm tiếp theo” (gọi tắt là Nghị quyết 383). Nghị quyết đặt ra mục tiêu: Xây dựng hệ thống cơ sở kinh tế vững mạnh về tổ chức, có cơ chế quản lý điều hành chặt chẽ, năng động, tích cực hội nhập kinh tế trong nước và quốc tế; có công nghệ tiên tiến, hiện đại, phát triển bền vững, bảo toàn năng lực sản xuất quốc phòng, duy trì việc làm và nâng cao đời sống người lao động. Đến năm 2015, cơ bản xây dựng được một số ngành, lĩnh vực then chốt của CNQP như cơ khí, đóng tàu, hóa chất, điện - điện tử, cao su kỹ thuật và một số ngành công nghiệp hỗ trợ khác đạt trình độ tiên tiến, tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm công nghiệp và dịch vụ khoa học công nghệ; tiến tới xuất khẩu một số sản phẩm vũ khí trang bị quân sự có giá trị cao.
Thực hiện mục tiêu đó, 5 năm qua, các đơn vị trong Tổng cục đã không ngừng nỗ lực khắc phục khó khăn, tập trung mọi nguồn lực đẩy mạnh phát triển kinh tế. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết được các đơn vị xác định là cách để “cởi nút thắt” trong định hướng phát triển kinh tế. Ngay cả đối với đơn vị có bề dày kinh nghiệm trong tổ chức sản xuất, kinh doanh (tỷ trọng doanh thu từ sản xuất kinh tế thường xuyên chiếm tới 2/3 tổng doanh thu hằng năm) như Nhà máy Z113, khi triển khai thực hiện Nghị quyết 383 đã giúp đơn vị tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, ý thức trách nhiệm của toàn thể cán bộ, công nhân viên, người lao động trong thúc đẩy sản xuất kinh tế. Còn đối với Z115, Đảng ủy Nhà máy triển khai thực hiện Nghị quyết 383 trong bối cảnh Nhà máy đang gặp khó khăn về tìm hướng đi mới cho nhiệm vụ phát triển kinh tế theo hướng bền vững. Khi Nghị quyết 383 chỉ rõ mục tiêu sản phẩm của ngành vật liệu nổ công nghiệp là: “Đầu tư các dây chuyền sản xuất vật liệu nổ công nghiệp với công nghệ hiện đại, an toàn và sản phẩm thân thiện với môi trường, chú trọng nghiên cứu sản xuất sản phẩm phụ như sơn, axít và các hóa chất khác phục vụ kinh tế dân sinh để phát huy và nâng cao hiệu quả kinh tế các dây chuyền sản xuất”, Đảng ủy Nhà máy đã quyết tâm lãnh đạo đơn vị thực hiện tốt các mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế theo Nghị quyết 383.
Riêng với Viện Thuốc phóng - Thuốc nổ, việc thực hiện Nghị quyết 383 trở nên đặc biệt hơn khi Viện là đơn vị nghiên cứu duy nhất của Tổng cục thực hiện chuyển đổi mô hình hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Thực tế, việc chuyển đổi mô hình hoạt động theo phương thức mới tạo điều kiện để Viện chủ động hơn trong công tác tài chính, điều hành phát huy nguồn lực triển khai nghiên cứu, sản xuất nhanh, hiệu quả. Kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ và sản xuất của Viện được đánh giá tốt, doanh thu tiếp tục tăng trưởng, chất lượng và năng lực cạnh tranh của các sản phẩm kinh tế ngày một nâng cao, duy trì ổn định các mặt hàng truyền thống, nâng cao đời sống người lao động và góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của Tổng cục.
Như vậy, sự ra đời của Nghị quyết 383 đã giúp các đơn vị trong Tổng cục có thêm cơ sở để đánh giá, nhìn nhận lại cũng như đề ra phương hướng phát triển kinh tế của đơn vị mình một cách phù hợp, hiệu quả. Ngay cả đối với đơn vị thường phải tập trung cao cho nhiệm vụ sản xuất quốc phòng với giá trị, sản lượng lớn như Nhà máy Z129, khi triển khai thực hiện Nghị quyết 383, Đảng ủy Nhà máy cũng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh tế, như: Việc đầu tư cho phát triển sản xuất kinh tế cả về cơ cấu tổ chức, nhân lực và các nguồn lực khác chưa được chú trọng và chưa xây dựng được chiến lược thực hiện lâu dài, còn mang tính thời vụ, nhỏ lẻ, có lúc ngừng sản xuất…

Sản xuất thuốc nổ công nghiệp - sản phẩm kinh tế chủ lực của Nhà máy Z115.
Vai trò quan trọng để phát triển bền vững
Theo đánh giá của đồng chí Trung tướng Khuất Việt Dũng, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Tổng cục CNQP, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 383, sản xuất kinh tế của các đơn vị đã có những chuyển biến tích cực; chất lượng và năng lực cạnh tranh của các sản phẩm kinh tế ngày một nâng cao. Các đơn vị đã từng bước mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm kinh tế; duy trì sản xuất ổn định các mặt hàng truyền thống; đầu tư phát triển các mặt hàng mới có hàm lượng gia tăng và trình độ công nghệ cao; bảo đảm việc làm, ổn định đời sống người lao động và góp phần duy trì năng lực sản xuất quốc phòng. Nhiều sản phẩm kinh tế do các nhà máy CNQP sản xuất đã có vị trí vững chắc trên thị trường, như: Vật liệu nổ công nghiệp, các gam tàu, quạt điện, cao su kỹ thuật cao, hàng cơ khí gia dụng và xuất khẩu…
Là đơn vị có sản phẩm kinh tế chủ lực - thuốc nổ công nghiệp, những năm qua, Nhà máy Z113 đã không ngừng đổi mới về công nghệ, nâng cao chất lượng, đảm bảo duy trì sản lượng tiêu thụ trong điều kiện thị trường ngày càng thu hẹp. Bằng việc tăng cường quản lý, kiểm soát chất lượng vật tư đầu vào, thực hiện các giải pháp tiết kiệm chi phí, Nhà máy đã ổn định giá của thuốc nổ công nghiệp và các loại mũi khoan khai thác trong nhiều năm. Đặc biệt, năm 2015, Nhà máy tiếp nhận chuyển giao công nghệ dây chuyền sản xuất thuốc nổ TNT phục vụ quân sự và công nghiệp. Giai đoạn 2012-2016, doanh thu từ sản xuất kinh tế luôn chiếm trên 66% tổng doanh thu của Nhà máy, trong đó vào các năm 2013, 2014 chiếm tới trên 84%; sản phẩm thuốc nổ công nghiệp luôn duy trì tiêu thụ ổn định, hoàn thành vượt mức kế hoạch sản lượng hằng năm đề ra; sản phẩm mũi khoan xoay cầu đáp ứng tối đa nhu cầu tiêu thụ trong nước, từng bước thay thế sản phẩm nhập khẩu.
Cũng thuộc ngành hàng hóa nổ, Nhà máy Z115 được đánh giá là đơn vị có quyết tâm cao trong khắc phục khó khăn, không ngừng nỗ lực giữ vững sản lượng tiêu thụ sản phẩm kinh tế, lấy sản xuất kinh tế làm chủ đạo để duy trì việc làm và ổn định thu nhập cho người lao động. Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, Nhà máy đã tích cực khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực, trang thiết bị và dây chuyền hiện có, ứng dụng khoa học công nghệ, không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng các loại sản phẩm. Hiện nay, các sản phẩm thuốc nổ công nghiệp mang thương hiệu Nhà máy, như: Thuốc nổ công nghiệp TFD-15WR, AFST-15A, TNM-15H; thuốc nổ chịu nước Anfo… và các sản phẩm cơ khí trọng yếu, như: Trụ nước cứu hỏa, máy dằm khuôn cát, kìm điện… đều có chỗ đứng trên thị trường. Nhờ đó, giai đoạn 2012-2016, sản xuất kinh tế của Nhà máy luôn giữ được sự ổn định và phát triển, giá trị sản xuất kinh tế tăng trung bình 11,8%/năm, doanh thu tăng 11,88%/năm.
Đối với Viện Thuốc phóng - Thuốc nổ, theo lộ trình chuyển đổi mô hình hoạt động, năm 2017, đơn vị phải bảo đảm hạch toán 50% quân số. Như vậy, chỉ có giải “bài toán” kinh tế hiệu quả, đơn vị mới có điều kiện “nuôi quân”. Là viện nghiên cứu đầu ngành về lĩnh vực vật liệu nổ, Viện đã phát huy lợi thế đặc thù của đơn vị trong việc nâng cao tính thiết thực trong nghiên cứu, phát triển các sản phẩm thuộc lĩnh vực vật liệu nổ, tạo được uy tín chất lượng và sức cạnh tranh cao, như: Đạn bắn vỉa phục vụ khai thác dầu khí; thuốc nổ công nghiệp TNP-1; mồi nổ năng lượng cao VE-05A; thuốc nổ nhũ tương TNP-1E. Giai đoạn 2012-2016, doanh thu trung bình từ sản xuất kinh tế của Viện đạt trên 90 tỷ đồng/năm; thường xuyên bảo đảm việc làm và thu nhập ổn định cho gần 80 lao động hợp đồng, thu nhập bình quân của bộ phận hạch toán cao hơn mức quân hàm.
Có thể khẳng định, sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 383, những kết quả mà các đơn vị đạt được là rất nổi bật, chứng minh vai trò quan trọng của sản xuất kinh tế đối với sự phát triển bền vững của các đơn vị, nhằm bảo toàn năng lực sản xuất quốc phòng và góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bài và ảnh: HÀ ANH