Tình hình thực thi pháp luật trong sử dụng vật liệu nổ công nghiệp trong toàn quân

8/1/2019 10:38:27 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 70

CNQP&KT - Trong phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng có 7 đơn vị sản xuất, 1 đơn vị kinh doanh và khoảng 90 tổ chức, doanh nghiệp có hoạt động sử dụng vật liệu nổ công nghiệp (VLNCN). Lĩnh vực hoạt động này trong Quân đội thời gian qua đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế đất nước.

Hiện nay, toàn quốc có 9 doanh nghiệp được phép sản xuất, kinh doanh VLNCN, tiền chất thuốc nổ. Các dây chuyền sản xuất VLNCN có công suất 180.000 tấn thuốc nổ/năm và 82,5 triệu kíp nổ các loại/năm; chủng loại sản phẩm đa dạng, đáp ứng hầu hết nhu cầu trong nước và có khả năng xuất khẩu. Trong phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng có 7 đơn vị sản xuất, 1 đơn vị kinh doanh và khoảng 90 tổ chức, doanh nghiệp có hoạt động sử dụng VLNCN. Lĩnh vực hoạt động VLNCN, tiền chất thuốc nổ trong Quân đội thời gian qua đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, việc quản lý tốt hoạt động VLNCN, tiền chất thuốc nổ góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội. Là ngành hàng nhạy cảm nên việc theo dõi tình hình thực thi pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này luôn được quan tâm thực hiện một cách thường xuyên, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả.

 Sau khi được Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước ký Lệnh ban hành, bắt đầu từ ngày 1/7/2018, Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ chính thức có hiệu lực thi hành. Căn cứ các điều khoản trong Luật, Chính phủ, Bộ Công Thương, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, theo thẩm quyền đã xây dựng và ban hành các nghị định, thông tư quy định chi tiết lĩnh vực hoạt động VLNCN, tiền chất thuốc nổ, được giao quản lý. Các văn bản dưới luật đều có hiệu lực cùng với hiệu lực của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực hoạt động VLNCN, tiền chất thuốc nổ, đã đầy đủ, thống nhất, đồng bộ và bảo đảm khả thi; là hành lang pháp lý quan trọng để hoạt động VLNCN, tiền chất thuốc nổ ngày càng đi vào nền nếp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Thực hiện Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật năm 2018 của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (CNQP) được phân công chủ trì theo dõi tình hình thi hành pháp luật lĩnh vực hoạt động VLNCN, tiền chất thuốc nổ, thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Quốc phòng. Tháng 8/2018, Tổng cục CNQP đã chủ trì, phối hợp với Vụ Pháp chế (Bộ Quốc phòng), Cục Tác chiến (Bộ Tổng Tham mưu) thành lập đoàn kiểm tra, tiến hành làm việc với 21 đơn vị, doanh nghiệp quân đội có hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo quản, vận chuyển và sử dụng VLNCN, tiền chất thuốc nổ, trên phạm vi toàn quốc. Đối tượng được kiểm tra thuộc nhiều mô hình tổ chức, có đặc thù hoạt động khác nhau, như các đoàn kinh tế - quốc phòng, tổng công ty, công ty 100% vốn Nhà nước, công ty cổ phần có vốn Nhà nước do Bộ Quốc phòng đại diện chủ sở hữu và các đơn vị quân đội hoạt động ở lĩnh vực xây dựng, khai thác khoáng sản, dịch vụ nổ mìn, sản xuất VLNCN.

 Qua kiểm tra cho thấy, các đơn vị đã quán triệt, triển khai, tổ chức thực hiện tốt các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo quản, vận chuyển và sử dụng VLNCN, tiền chất thuốc nổ; thường xuyên tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật và tập huấn cho các đối tượng có liên quan; ban hành các văn bản quy phạm nội bộ nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý VLNCN, tiền chất thuốc nổ tại đơn vị, doanh nghiệp. Hầu hết các đơn vị, doanh nghiệp được kiểm tra, đã cung cấp tài liệu chứng minh việc đáp ứng nguồn nhân lực, kinh phí, trang - thiết bị, cơ sở vật chất cơ bản bảo đảm cho việc thi hành pháp luật trong sử dụng VLNCN, tiền chất thuốc nổ.

Đối với việc tuân thủ pháp luật về VLNCN, tiền chất thuốc nổ, các đơn vị, doanh nghiệp đã đáp ứng và duy trì tốt các yêu cầu về hồ sơ pháp lý liên quan, như: Giấy phép kinh doanh; giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất; giấy phép sử dụng; giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự; lệnh vận chuyển; quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; giấy xác nhận hoàn thành các công trình bảo vệ môi trường; giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, sổ đăng ký chủ nguồn thải nguy hại; các hợp đồng mua bán, vận chuyển VLNCN, tiền chất thuốc nổ được ký kết đúng quy định; các dây chuyền sản xuất, cơ sở có nguy hiểm về cháy nổ đều được mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc; phương án nổ mìn, phương án chữa cháy của cơ sở, phương án bảo vệ an ninh, trật tự đối với kho VLNCN được cấp có thẩm quyền phê duyệt, xác nhận. Các đơn vị, doanh nghiệp sử dụng VLNCN bổ nhiệm chỉ huy nổ mìn phù hợp với quy định hiện hành. Một số doanh nghiệp đã triển khai ứng dụng phần mềm trong cải cách hành chính gắn với hệ thống chữ ký điện tử, thuận lợi cho việc quản lý điều hành khi lực lượng phân tán; nhiều đơn vị, doanh nghiệp đã lắp đặt hệ thống giám sát, theo dõi hành trình đối với phương tiện vận tải, góp phần nâng cao hiệu quả theo dõi, quản lý hoạt động vận chuyển VLNCN, tiền chất thuốc nổ.

Cùng với đó, các đơn vị, doanh nghiệp đã tích cực triển khai thực hiện tốt công tác kiểm tra, rà soát công trường, khai trường, khu vực sản xuất VLNCN tiềm ẩn các nguy cơ mất an toàn; xây dựng kế hoạch củng cố, khắc phục các vi phạm về an toàn; phúc tra kết quả thực hiện. Đồng thời, tổ chức phổ biến, diễn tập, nâng cao hiệu quả thực hành phương án ứng cứu sự cố khẩn cấp; các máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn được đăng ký, kiểm định theo quy định; chủ động rà soát, bổ sung báo cáo đánh giá nguy cơ rủi ro về an toàn theo quy định mới. Nhờ đó, trong năm 2018, toàn quân bảo đảm an toàn tuyệt đối, không để xảy ra thất thoát, sự cố mất an toàn lao động trong sản xuất, bảo quản, cung ứng, vận chuyển, sử dụng VLNCN, tiền chất thuốc nổ.


Dây chuyền sản xuất thuốc nổ công nghiệp của Nhà máy Z131.     Ảnh: LÊ NAM

 Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, qua kiểm tra, theo dõi các đơn vị, doanh nghiệp có hoạt động trong lĩnh vực này vẫn còn những mặt tồn tại, hạn chế. Để việc quản lý VLNCN, tiền chất thuốc nổ trong toàn quân bảo đảm chặt chẽ, thống nhất, an toàn, đúng quy định, trong thời gian tới, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cần thực hiện tốt các nội dung sau:

Một là, tiếp tục triển khai thực hiện các quy định pháp luật mới về quản lý, bảo quản, vận chuyển, sử dụng VLNCN và huấn luyện kỹ thuật an toàn VLNCN, tiền chất thuốc nổ. Cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng cần tập trung chỉ đạo các đơn vị, doanh nghiệp thuộc quyền tăng cường công tác giáo dục pháp luật về VLNCN, tiền chất thuốc nổ cho đội ngũ chỉ huy nổ mìn, thợ mìn; có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng các quy định về trình độ chuyên môn tương ứng với đặc thù hoạt động VLNCN, tiền chất thuốc nổ của từng đơn vị, doanh nghiệp, đặc biệt là đội ngũ chỉ huy nổ mìn, thợ mìn của khối doanh nghiệp có hoạt động khai thác khoáng sản.

 Hai là, rà soát, kiện toàn, thành lập bộ phận an toàn, vệ sinh lao động; rà soát, cập nhật, bổ sung báo cáo đánh giá nguy cơ rủi ro về an toàn; xây dựng kế hoạch ứng cứu khẩn cấp; xây dựng phương án nổ mìn, hộ chiếu nổ mìn; thực hiện chế độ báo cáo theo quy định mới tại Thông tư số 13/2018/TT-BCT của Bộ trưởng Bộ Công Thương; thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo các đơn vị tổ chức thực hành luyện tập các phương án ứng phó sự cố khẩn cấp; rà soát, kiểm tra và khắc phục các điều kiện chưa bảo đảm theo quy định về an ninh, an toàn, phòng, chống cháy nổ; phối hợp chặt chẽ với cơ quan công an, chính quyền địa phương trong công tác bảo đảm an ninh trật tự, phòng, chống cháy nổ đối với các dây chuyền sản xuất và kho VLNCN; tăng cường lực lượng và các thiết bị công nghệ trong việc hỗ trợ giám sát dây chuyền sản xuất, bảo vệ kho VLNCN, đặc biệt là các kho tạm, nhỏ lẻ ở vùng sâu, vùng xa, hẻo lánh.

Ba là, rà soát, thực hiện sửa đổi các văn bản quy phạm nội bộ liên quan đến quản lý VLNCN phù hợp quy định mới, bảo đảm thực hiện thống nhất, đồng bộ và nâng cao hiệu quả quản lý của tổ chức, doanh nghiệp. Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý, chỉ đạo, điều hành và lưu trữ hồ sơ trong hoạt động VLNCN, tiền chất thuốc nổ.

Bốn là, cơ quan quản lý theo phân cấp tiếp tục tổ chức thực hiện nghiêm việc thẩm định, thẩm tra, hậu kiểm công tác cấp phép sử dụng, vận chuyển VLNCN, tiền chất thuốc nổ theo đúng quy định và thẩm quyền; có kế hoạch thanh tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất các doanh nghiệp sử dụng VLNCN, nhất là đối với các doanh nghiệp bảo quản, sử dụng VLNCN quy mô nhỏ, vùng sâu, vùng xa; kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về an ninh, an toàn phòng, chống cháy nổ đối với kho bảo quản, phương tiện vận chuyển, phương án nổ mìn.

Năm là, trong quá trình triển khai thực hiện quy định của pháp luật về lĩnh vực VLNCN, tiền chất thuốc nổ, cơ quan, đơn vị tích cực phản ánh ý kiến về bất cập, vướng mắc, khó khăn, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật về VLNCN, tiền chất thuốc nổ thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Quốc phòng và các bộ, ngành liên quan.

Hoạt động VLNCN, tiền chất thuốc nổ của các đơn vị, doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Quốc phòng là một bộ phận gắn bó hữu cơ, không thể tách rời hoạt động VLNCN, tiền chất thuốc nổ trên cả nước. Mặc dù công tác quản lý VLNCN, tiền chất thuốc nổ đã có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, nhưng việc triển khai thực hiện đòi hỏi phải đồng bộ, thống nhất, có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, vừa đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện, vừa tạo điều kiện để các đơn vị, doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh, phòng, chống cháy nổ, an toàn lao động, góp  phần giữ vững ổn định tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn các đơn vị, doanh nghiệp đóng quân.

Thiếu tướng NGUYỄN ĐẮC HẢI

 Phó Chủ nhiệm Tổng cục CNQP

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại