Cho đến nay, văn bản quy phạm pháp luật cao nhất liên quan đến lĩnh vực sản xuất vũ khí là Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng và Pháp lệnh Động viên công nghiệp. Thực tế cho thấy, quá trình thi hành 2 pháp lệnh này, bên cạnh những kết quả đạt được cũng xuất hiện nhiều vướng mắc, bất cập. Đặc biệt là quy định chức năng quản lý nhà nước về CNQP và ĐVCN của Bộ Quốc phòng; tính lưỡng dụng trong hoạt động CNQP; cơ chế ưu tiên nguồn lực cho xây dựng và phát triển CNQP và ĐVCN; tính "xã hội hóa" trong thực hiện ĐVCN… Vì thế, trước khi dự án Luật được trình lên Quốc hội, tháng 9 vừa qua, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội đã cho ý kiến, nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật CNQP, AN và ĐVCN. Theo đó, việc xây dựng luật nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách trước mắt cũng như lâu dài, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, khả thi góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Dự thảo Luật CNQP, AN và ĐVCN, gồm 7 chương và 73 điều. Trong đó, ngoài Chương I (Những quy định chung), dự thảo Luật còn có các chương về CNQP, AN; về chuẩn bị và thực hành ĐVCN; về chế độ, chính sách trong CNQP, AN và ĐVCN; về hợp tác quốc tế; về trách nhiệm quản lý nhà nước; về điều khoản thi hành. Một trong những nội dung cần được thể chế hóa trong luật, với các chế tài mang tính pháp lý cao, chính là việc quy định sự tham gia của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong xây dựng, phát triển CNQP; trong thực thi pháp luật về phát triển CNQP. Trên thực tế, vẫn còn khá nhiều người mơ hồ về nhiệm vụ ĐVCN, huy động sự tham gia của tổ chức, doanh nghiệp, thành phần kinh tế trong sản xuất sản phẩm quân sự. Có ý kiến cho rằng: "Mỗi năm chỉ sản xuất một số lượng sản phẩm quốc phòng nhất định, các doanh nghiệp CNQP làm còn không đủ, đâu đến lượt dân doanh". Phải khẳng định, đó là cách nhìn nhận phiến diện, ấu trĩ, chưa hiểu rõ cơ chế, chính sách về ĐVCN. Không chỉ ở Việt Nam, mà ngay cả các nước có nền CNQP phát triển, việc một doanh nghiệp sản xuất trọn gói "từ A đến Z" một sản phẩm quốc phòng là điều không tưởng. Tính liên kết, khả năng hợp tác, phát huy thế mạnh của nhau trong nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất sản phẩm quốc phòng là vấn đề có tính nguyên tắc. Theo hướng đó, tất cả các doanh nghiệp dân doanh, các thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất quốc phòng, đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Vấn đề là, doanh nghiệp nào đủ khả năng? Cơ chế, chính sách và đảm bảo bí mật quân sự như thế nào? Sự phối hợp trong sản xuất giữa doanh nghiệp quốc phòng nòng cốt và doanh nghiệp dân doanh ra sao? Đó là những vấn đề cần phải được quy định trong Luật và các văn bản hướng dẫn dưới luật.
Đầu tháng 10 vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có kết luận về dự án Luật CNQP, AN và ĐVCN, đề nghị Chính phủ chỉ đạo cơ quan soạn thảo tiếp thu ý kiến của các cơ quan chức năng, khẩn trương hoàn thiện Hồ sơ dự án Luật trình Quốc hội xem xét. Về vấn đề "xã hội hóa" và "lưỡng dụng hóa", Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo: Nghiên cứu cụ thể trong dự thảo Luật về phát triển theo hướng lưỡng dụng, sản phẩm lưỡng dụng sử dụng trong cả QP, AN và dân sinh; hoàn thiện các chính sách đặc thù, thu hút sự tham gia của các ngành công nghiệp dân sinh vào hoạt động CNQP, AN; nghiên cứu xây dựng các chính sách liên doanh, liên kết để làm cơ sở, định hướng hình thành các tập đoàn, tổng công ty, tổ hợp CNQP, AN giữ vị trí mũi nhọn về CNQP, AN. Kết luận cũng xác định rõ: "Mở rộng đối tượng, phạm vi, hoàn thiện quy định về ĐVCN. ĐVCN phải tiến hành ngay trong thời bình nhằm huy động sự tham gia của các doanh nghiệp trong và ngoài Quân đội, huy động mọi nguồn lực để phát triển CNQP theo hướng lưỡng dụng, hiện đại".
Ngành Quân giới - CNQP Việt Nam đã trải qua hơn 78 năm xây dựng và phát triển. Với việc "Luật hóa" sản xuất vũ khí, chúng ta tin tưởng rằng, ngành CNQP nước nhà sẽ có bước phát triển mới trong thời gian tới.
NHẤT NGÔN