Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong công tác đối ngoại quốc phòng hiện nay

2/26/2021 8:50:06 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 19

CNQP&KT - Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống những nguyên lý, quan điểm về các vấn đề thời đại, đường lối quốc tế, chiến lược, sách lược, chính sách ngoại giao Việt Nam thời kỳ hiện đại... Trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đã soi sáng chính sách đối ngoại Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 90 năm qua.

Nguyên tắc xuyên suốt trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là phải giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia. Trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, Người đã khẳng định trước toàn thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập, toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”1. Tháng 6/1955, trong chuyến thăm Trung Quốc, Người khẳng định: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sẵn sàng đặt mọi quan hệ hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi và chung sống hòa bình”2.

Với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế, là một vấn đề có tầm chiến lược quan trọng hàng đầu trong đường lối cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người là: “Muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã”. “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”3. Theo Người, độc lập, tự chủ trước hết là phải có tư duy và hành động tự chủ, sáng tạo, không giáo điều và rập khuôn. Hồ Chí Minh chủ trương phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, đại đoàn kết dân tộc; đó là cơ sở để thực hiện hợp tác quốc tế và tranh thủ sự giúp đỡ bên ngoài. Người khẳng định: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào. Về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính và ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh, giành được thắng lợi phải do nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”4. Người nêu lên mối quan hệ giữa tự lực cánh sinh và tranh thủ sự viện trợ quốc tế: Các nước bạn ta, ra sức giúp đỡ ta một cách vô tư, khẳng khái để cho chúng ta có thêm điều kiện tự lực cách sinh. Mục tiêu của đoàn kết và hợp tác quốc tế là tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế, làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường. Vì vậy, độc lập, tự chủ phải gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, được Đảng ta nâng lên thành đường lối ngoại giao: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển… chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”5; trong đó nội lực là nhân tố quyết định, ngoại lực là yếu tố quan trọng.

Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 80 quốc gia và các tổ chức quốc tế, đồng thời thiết lập cơ quan Tùy viên Quốc phòng tại 32 nước và Liên Hợp Quốc; đã có 45 nước thiết lập Tùy viên Quốc phòng tại Việt Nam.

Đa dạng hóa các hình thức, đa phương hóa các quan hệ quốc tế cũng là quan điểm lớn trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế. c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”6. Thực tiễn cho thấy, để biến sự ủng hộ quốc tế thành nhân tố góp phần đảm bảo thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta kiên trì, công phu thực hiện ngoại giao tâm công, sử dụng và phối hợp các hình thức, các lực lượng ngoại giao khác nhau theo quan điểm ngoại giao toàn dân với phương châm: làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết.

Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là: cần phải phân định rạch ròi bạn hay thù trong từng mối quan hệ cụ thể. Trong thực tiễn, với các nước bạn bè, anh em, Hồ Chí Minh luôn thuỷ chung, chân thành xây dựng mối quan hệ vừa là đồng chí, vừa là anh em. Với những đối tượng cụ thể, Người tìm những điểm tương đồng để khơi dậy tình hữu ái và tinh thần hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Người khẳng định: “Nhân dân Việt Nam coi nhân dân Mỹ là bạn của mình; chúng tôi chống là chống chính sách can thiệp…”7. Điều dễ dàng nhận thấy là Hồ Chí Minh chú trọng tình nghĩa và tín nghĩa trong quan hệ đối ngoại: “Tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa”8. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9, khóa III, Người nhắc nhở Đảng phải giáo dục nhân dân ta yêu mến, biết ơn chân thành và phấn đấu cho đoàn kết giữa các nước anh em, xem đó là điều “thiên kinh địa nghĩa”.


Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với các đại biểu Liên Xô và nước ngoài dự Đại hội 22 Đảng Cộng sản Liên Xô.     Ảnh: TL

Quán triệt tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, trong gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã vận dụng vào hoạch định đường lối đối ngoại: “Chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”9; “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”10, “Nâng cao hiệu quả đối ngoại đa phương, nhất là trong ASEAN, Liên hợp quốc”11… Kết quả thực hiện đường lối đó đã giải quyết được những vấn đề tồn tại của đất nước như phá thế bị bao vây cấm vận, cải thiện quan hệ với các nước láng giềng, tăng cường bắt tay với các nước lớn và các tổ chức quốc tế, tạo dựng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đặc biệt, Đảng ta đã cụ thể hóa trong việc xác định đối tác, đối tượng và mối quan hệ đối tác - đối tượng. Với đường lối ngoại giao đúng đắn, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 230 quốc gia, tổ chức, vùng lãnh thổ trên thế giới; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 17 quốc gia; tham gia các khối, tổ chức kinh tế như APEC, ASEAN, AFTA, WTO…; tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).

Đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng phải kiên trì mục tiêu giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo an ninh quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Là bộ phận quan trọng của nền ngoại giao Nhà nước, những năm qua, công tác đối ngoại quốc phòng, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, đã đạt được những thành tựu to lớn. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, chủ trương “đa phương hóa, đa dạng hóa” trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, mục tiêu của công tác đối ngoại quốc phòng là thiết lập và phát triển quan hệ về quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau nhằm góp phần vào công cuộc củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững môi trường hòa bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết 22-NQ/TW (10/4/2013) của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Hội nhập quốc tế”; Nghị quyết 806-NQ/QUTW (31/12/2013) của Quân ủy Trung ương về “Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”… đã xác định hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là định hướng, kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. Với đường lối đúng đắn, Việt Nam đã ứng phó linh hoạt với diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới; không để điểm nóng phát triển thành xung đột quân sự và không để những bất đồng phá vỡ quan hệ hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng. Giữ vững lợi ích quốc gia, dân tộc, độc lập, tự chủ, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và xác định đó là mục tiêu cao nhất, bảo đảm phù hợp với lợi ích chiến lược, tổng thể của khu vực và thế giới. Quan hệ đối ngoại quốc phòng dưới các hình thức như trao đổi các đoàn quân sự các cấp, tham vấn - đối thoại quốc phòng, tham gia các diễn đàn khu vực và quốc tế... được tăng cường. Việt Nam tích cực tham gia Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+); tham gia ngày càng sâu hơn vào các diễn đàn của Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu (EU) và diễn đàn quốc phòng - an ninh khu vực, liên khu vực; tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc với mức độ cao hơn; đối ngoại quốc phòng song phương được đẩy mạnh. Do đó, đã đưa quan hệ quốc phòng với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất, ổn định và bền vững, góp phần tạo sự đồng thuận trong quan hệ đa phương ở khu vực, thế giới, làm sâu sắc thêm quan hệ với các đối tác, nhất là đối tác lớn. Nhiều lĩnh vực hợp tác đã được thiết lập, thúc đẩy mối quan hệ đa phương, nhất là với các nước có nền khoa học quân sự tiên tiến để nâng cao khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị, góp phần phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quân đội.

Với quan điểm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy”, đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 80 quốc gia và các tổ chức quốc tế; đồng thời thiết lập cơ quan Tùy viên Quốc phòng tại 32 nước và Liên hợp quốc12; đã có 45 nước thiết lập Tùy viên Quốc phòng tại Việt Nam13. Việt Nam đã tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài thông qua đối ngoại quốc phòng để từng bước hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật, nâng cao trình độ, khả năng tác chiến của quân đội và sức mạnh quốc phòng của đất nước. Đặc biệt, công tác đối ngoại quốc phòng đã có những đóng góp quan trọng vào việc xây dựng, củng cố lòng tin giữa các nước, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Cùng với đó, đã góp phần làm sâu sắc quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, xây dựng lòng tin với các đối tác mới có sự đan xen lợi ích chiến lược. Đối ngoại quốc phòng cùng với ngoại giao Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân tạo thành sức mạnh tổng hợp, hình thành thế trận ngoại giao giải quyết những nguy cơ về quốc phòng và xung đột quân sự bằng biện pháp hòa bình; góp phần phòng ngừa vững chắc, ngăn chặn từ xa các hoạt động xâm phạm chủ quyền; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Trước thực tiễn thế giới, khu vực đang diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, khó lường, để đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đòi hỏi công tác đối ngoại quốc phòng phải được nâng lên tầm cao mới. Trong đó, cần vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn. Theo đó, đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng phải kiên trì mục tiêu giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo an ninh quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế theo phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”. Chú trọng phát huy nội lực, gắn với mở rộng quan hệ trên các lĩnh vực công nghiệp - quân sự quốc phòng, đa dạng hóa lĩnh vực hợp tác, như: trao đổi thông tin, tham vấn - đối thoại, hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng... Cùng với đó, đẩy mạnh quan hệ với các đối tác có thế mạnh, giàu tiềm năng về khoa học - công nghệ để tiếp thu công nghệ hiện đại, ứng dụng vào sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật nhằm mục tiêu hiện đại hóa quân đội. Tiếp tục làm sâu sắc thêm quan hệ với các nước láng giềng, cân bằng quan hệ với các nước lớn, giữ vững quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, chủ động phòng ngừa từ sớm, từ xa các yếu tố bên ngoài có thể chuyển hóa thành “đối tượng” trong quan hệ đối ngoại.

Có thể khẳng định, trong bối cảnh tình hình chính trị - xã hội khu vực và thế giới có những diễn biến phức tạp, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc định hướng đường lối đối ngoại nhằm giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trung tá, ThS. ĐỖ QUỲNH ANH& Đại úy, QNCN ĐINH NGỌC TUẤN

Trường Sĩ quan Lục quân 2

 

_________________

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.4.

2. Sđd, tập 8, tr.5.

3.  Sđd, tập 2, tr.293.

4. Sđd, tập 5, tr.136.

 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.153.

 6. Sđd, tập 4, tr.470.

 7. Sđd, tập 9, tr.93.

 8. Sđd, tập 12, tr.54.

 9. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.314.

10. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, , tr.153.

11. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tr.314.

12. https://nhandan.com.vn, ngày 13/12/2019.

13. http://tapchithongtindoingoai.vn, ngày 22/12/2017.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại