Định hướng chiến lược trong tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

12/13/2019 10:13:35 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 33

CNQP&KT - Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0) xuất hiện vào những năm 2000 với tên gọi Cách mạng số và ghi dấu ấn đậm nét tại Diễn đàn Kinh tế thế giới ở Davos (Thụy Sỹ) năm 2015. Đến nay, nhiều nước trên thế giới đã xây dựng chiến lược phát triển và ứng dụng thành tựu Cách mạng 4.0, trong đó có Việt Nam.

TỪ ĐÁNH GIÁ THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC...

 Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó nhận định rõ: “Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước”. Có thể thấy, Cách mạng 4.0 sẽ tạo cho Việt Nam bước đột phá về năng suất lao động trong các ngành công nghiệp mũi nhọn (điện tử, hóa chất, dầu khí, hàng tiêu dùng, thực phẩm, dược phẩm và công nghiệp giải trí), bởi các lý do sau:

Thứ nhất, Cách mạng 4.0 giúp người dân Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, có thể khởi nghiệp, sáng tạo, tiếp cận các nguồn lực, thông tin, tri thức và thị trường mới. Môi trường siêu kết nối cũng tạo nên cuộc cách mạng về giao dịch, thanh toán, logistics (hậu cần - kho vận), đồng thời giúp các doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng và giá trị toàn cầu.

Thứ hai, Cách mạng 4.0 giúp Việt Nam thay đổi mô hình kinh doanh một cách đột phá, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động với sức cạnh tranh cao, bảo đảm tăng trưởng nhanh và bền vững. Đồng thời, tạo đà phát triển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ - nơi khởi nguồn của nhiều ý tưởng mới, tạo ra hệ sinh thái doanh nhân và sáng tạo.

Thứ ba, Cách mạng 4.0 tạo cơ hội “đi tắt, đón đầu” trong sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam có cả điều kiện cần và đủ để vượt qua các giai đoạn phát triển theo mô hình truyền thống, nhờ trí tuệ nhân tạo (AI), robot hóa, tự động hóa, thiết bị không người lái, mạng 5G, hệ thống cảm biến… khiến việc nâng cao năng suất, sử dụng hiệu quả nguồn lực và tài nguyên là không giới hạn.

Sử dụng robot trong lắp ráp ô-tô và sản xuất chi tiết sản phẩm. Ảnh: CTV

Tuy nhiên, Cách mạng 4.0 cũng đặt ra cho Việt Nam những thách thức cần phải vượt qua, đó là tình trạng dư thừa lao động có kỹ năng thấp trong các ngành nghề nông nghiệp, dệt may, giày dép... do việc ứng dụng công nghệ mới với robot hóa, tự động hóa thay thế lao động đơn giản. Theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế, 86% lao động trong ngành công nghiệp dệt may và giày dép ở Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ thất nghiệp. Cùng với đó, còn là vấn đề về nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là nhân lực ngành công nghệ thông tin. Cách mạng 4.0 cũng đặt ra những thách thức về thị trường và khả năng thích ứng của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, còn là sự gia tăng về khoảng cách thu nhập, khiến các vấn đề xã hội nảy sinh; biên giới mềm, quyền lực mềm; an ninh mạng, an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao, xuyên quốc gia... nếu không chủ động kiểm soát, quản lý kịp thời sẽ xảy ra nguy cơ mất an ninh, chủ quyền đất nước.

Nghị quyết số 52-NQ/TW cũng đánh giá: “Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0”. Theo đó, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16/CT-TTG ngày 4/5/2017 về nâng cao năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; Quyết định 999/QĐ-TTg ngày 12/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng cơ sở hạ tầng, bước đầu hình thành nền kinh tế số; công nghệ 4.0 được áp dụng trong các ngành công, nông nghiệp, dịch vụ; xuất hiện ngày càng nhiều hình thức kinh doanh, dịch vụ mới như: Công nghệ Fintech, Blockchain; thực tế ảo (VR), thực tế ảo tăng cường (AR); Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data); chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số... Tổ chức nhiều cuộc hội thảo với các chuyên đề như: Những xu hướng của cuộc Cách mạng 4.0, nhận diện tác động và khuyến nghị đối với Việt Nam; xây dựng đô thị thông minh bền vững trong bối cảnh Cách mạng 4.0; phát triển nền sản xuất thông minh, tầm nhìn và giải pháp công nghệ; bước tiến mới trong ngành tài chính - ngân hàng trong bối cảnh cuộc Cách mạng 4.0...

...ĐẾN KHẲNG ĐỊNH QUYẾT TÂM CHIẾN LƯỢC

  Trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình thế giới, trong nước về Cách mạng 4.0, Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định quyết tâm chiến lược với các điểm nhấn quan trọng, trong đó chỉ ra 3 mục tiêu tổng quát cần hướng tới, đó là: Tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng 4.0 đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hóa đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số, phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái. Có thể nhận thấy, 3 mục tiêu nêu trên có vai trò quan trọng hàng đầu trong bối cảnh sự nghiệp đổi mới của nước ta tuy đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng sau hơn 30 năm, nguồn lực và động lực cho phát triển đất nước đang có dấu hiệu chững lại và cần phải được bổ sung bằng nguồn lực mới từ cuộc Cách mạng 4.0. 

Ứng dụng sản xuất thông minh trong thời đại Công nghiệp 4.0.      Ảnh: CTV

Bên cạnh 3 mục tiêu tổng quát, Nghị quyết số 52 cũng nêu rõ 11 mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn, từ nay cho đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, cụ thể là:

Giai đoạn 1, từ nay đến năm 2025, có 4 mục tiêu: Duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc 3 nước dẫn đầu Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); xây dựng được hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; Internet băng thông rộng phủ 100% các xã. Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP; năng suất lao động tăng bình quân trên 7%/năm. Cơ bản hoàn thành chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng chính phủ điện tử, trong đó có ít nhất 3 đô thị thông minh tại 3 vùng kinh tế trọng điểm (Bắc, Trung, Nam).

Giai đoạn 2, từ năm 2025 đến năm 2030, đề ra 5 mục tiêu: Duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu thế giới. Mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc; mọi người dân được truy cập internet băng thông rộng với chi phí thấp. Kinh tế số chiếm trên 30% GDP; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 7,5%/năm. Hoàn thành xây dựng chính phủ số. Hình thành một số chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế trọng điểm Bắc, Trung, Nam; từng bước kết nối với mạng lưới đô thị thông minh trong khu vực và thế giới.

 Giai đoạn 3, từ năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045 với 2 mục tiêu cụ thể: Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu khu vực châu Á. Năng suất lao động cao, có đủ năng lực làm chủ và áp dụng công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh.

Như vậy, với 3 mục tiêu tổng quát và 11 mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn, Nghị quyết số 52 của Bộ Chính trị đã khẳng định quyết tâm chiến lược của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong việc phát triển và ứng dụng những thành tựu của Cách mạng 4.0, góp phần đưa Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội.

NHỮNG GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY

Thời gian tới, để chủ động, tích cực tham gia Cách mạng 4.0 một cách hiệu quả, cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, cần sớm xây dựng Chiến lược phát triển tổng thể quốc gia, Chương trình trọng điểm quốc gia về Cách mạng 4.0. Thiết lập cơ chế, chính sách tiếp cận Cách mạng 4.0, đổi mới phương thức quản lý theo hướng chính phủ kiến tạo, hành động; tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện ý tưởng mới, đề cao tính sáng tạo của doanh nghiệp và người dân. Mặt khác, cần nghiên cứu đánh giá chính xác sự tác động đến từng ngành, lĩnh vực, sản phẩm (trong đó có ngành công nghiệp quốc phòng) làm căn cứ xây dựng chiến lược phát triển cho mỗi ngành, lĩnh vực với mục tiêu hợp lý, hiệu quả. Lựa chọn những ngành, phân khúc có tiềm năng và thế mạnh để đầu tư có trọng điểm.

Hai là, tạo sự bứt phá về hạ tầng công nghệ thông tin; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, kết nối số; xây dựng chính phủ điện tử, thành phố thông minh. Phát triển dịch vụ cáp quang băng thông rộng, mạng 4G, 5G đảm bảo được tính truy nhập, công bằng kết nối hạ tầng cho các doanh nghiệp. Thực hiện chuẩn hóa hệ thống dữ liệu quốc gia để có thể kết nối và chia sẻ; đồng thời bảo vệ dữ liệu cá nhân, bảo đảm an toàn, an ninh mạng.

Ba là, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực công nghệ thông tin; hình thành trung tâm đổi mới và vườn ươm sáng tạo, thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp. Tăng cường đầu tư, hiện đại hóa các cơ sở đào tạo, đáp ứng cao nhất yêu cầu đổi mới công nghệ, gắn kết giữa đào tạo với doanh nghiệp theo cơ chế hợp tác cùng có lợi, đưa nhanh các tiến bộ khoa học vào sản xuất và kinh doanh, khuyến khích tạo lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, hỗ trợ khởi nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Bốn là, nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và chuẩn bị các nguồn lực cho sự phát triển, nắm bắt xu thế kinh doanh, tăng cường năng lực quản trị, trình độ công nghệ, chất lượng sản phẩm và hạ thấp chi phí để thích ứng với môi trường Cách mạng 4.0. Mỗi doanh nghiệp cần chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh theo khả năng và lĩnh vực, cải tiến công nghệ theo hướng sử dụng công nghệ số để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh vì mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.

 Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế về kết nối số, chia sẻ dữ liệu, nâng cao hiệu quả các hình thức kết nối, hỗ trợ thương mại điện tử, chính phủ điện tử; hình thành mạng lưới giáo dục ASEAN; hợp tác bảo đảm an ninh mạng giữa các nước trong khu vực và thế giới.

Có thể khẳng định, Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị là một văn kiện có tính lịch sử, đánh giá toàn diện về thời đại Cách mạng 4.0; xác định các quan điểm, mục tiêu, định hướng chính sách, và các giải pháp chiến lược cụ thể để Việt Nam “đi tắt, đón đầu”, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, phát triển nhanh và bền vững.

Đại tá NGUYỄN NHÂM

(Nguyên cán bộ Viện Chiến lược Quốc phòng)

____________________

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị.

2. https://dantri.com.vn, bài viết: Thách thức đổi mới cơ cấu nguồn nhân lực cho Cách mạng công nghiệp 4.0.

3. http://thoibaotaichinhvietnam.vn, bài viết: Nếu không bắt nhịp với Cách mạng công nghiệp 4.0, doanh nghiệp Việt sẽ thua trên “sân nhà”.

4.  https://baomoi.com: Cách mạng Công nghiệp 4.0: Doanh nghiệp cần chủ động và hiểu rõ mình.

5. https://vov.vn, bài viết: WEF ASEAN 2018 lan tỏa tinh thần đổi mới, sáng tạo để phát triển.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại