Bộ luật Lao động 2019 - Thúc đẩy sự phát triển bền vững lực lượng lao động

2/3/2020 10:22:28 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 6

CNQP&KT - Tại Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XIV vừa qua, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi). Có hiệu lực từ ngày 1/1/2021, Bộ luật này được kỳ vọng sẽ thúc đẩy sự phát triển bền vững lực lượng lao động và thị trường lao động ở nước ta.

THẬN TRỌNG, THẤU ĐÁO VỚI TỪNG QUY ĐỊNH

Cách đây đúng 25 năm (ngày 1/1/1995), Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành. Đây là một trong những bộ luật rất quan trọng, tác động tới tất cả các thành phần kinh tế, mọi DN, các tổ chức, cơ sở sản xuất - kinh doanh, dịch vụ và người lao động. Từ đó đến nay, Bộ luật Lao động đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 2002, 2006, 2007 và 2012. Đánh giá của Chính phủ cho thấy, thực tiễn thi hành Bộ luật Lao động năm 2012 vẫn còn một số điều chưa đáp ứng được với sự phát triển rất nhanh chóng và mạnh mẽ của thị trường lao động, yêu cầu nâng cao năng suất lao động, cải tiến quản trị nhân lực DN trong bối cảnh tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Từ thực tế trên, đòi hỏi Bộ luật Lao động 2012 cần được sửa đổi toàn diện, với nhiều vấn đề mới, phức tạp, có những vấn đề chưa có tiền lệ ở Việt Nam. Việc sửa đổi nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 về quyền con người trong lĩnh vực lao động, quan hệ lao động và thị trường lao động, bảo đảm tính thống nhất, sự phù hợp của hệ thống pháp luật. Đặc biệt, để bảo đảm sự tương thích với tiêu chuẩn lao động quốc tế khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.

Bộ luật đã được Quốc hội xem xét thấu đáo, thận trọng, đa chiều theo quy trình tại 2 kỳ họp. Đáng chú ý, trước khi trình Quốc hội xem xét, thảo luận và thông qua, Chính phủ (cơ quan xây dựng, trình dự án luật) và Ủy ban Thường vụ Quốc hội (cơ quan tiếp thu, chỉnh lý dự án luật) đã có nhiều cuộc làm việc, tổ chức nhiều hội nghị lấy ý kiến chuyên gia, đi thực tế cơ sở để nghe tiếng nói của các đối tượng chịu sự tác động của Bộ luật. Nhiều nội dung quan trọng liên quan trực tiếp đến tính khả thi của Bộ luật, như: vấn đề mở rộng khung thỏa thuận giờ làm thêm tối đa; tăng tuổi nghỉ hưu; thay đổi mô hình giải quyết tranh chấp lao động; những vấn đề có thể phát sinh trong quá trình thương lượng tập thể khi hình thành thêm tổ chức đại diện của người lao động tại DN ngoài hệ thống Liên đoàn Lao động Việt Nam... đều được cơ quan soạn thảo và các đại biểu Quốc hội nghiên cứu tháo đáo, kỹ càng.


Các đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi).  Ảnh: CTV

HÀI HÒA LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG VÀ DOANH NGHIỆP

Một trong những điểm đáng chú ý của Bộ luật Lao động năm 2019 là điều chỉnh tuổi nghỉ hưu với người lao động. Cụ thể, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ, sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam và 4 tháng đối với lao động nữ. Người lao động nặng nhọc, độc hại, ở vùng đặc biệt khó khăn… sẽ có lộ trình điều chỉnh khác và sẽ có hướng dẫn cụ thể.

Bộ luật Lao động năm 2019 cũng bổ sung nhiều quyền lợi mới cho người lao động. Đó là lần đầu tiên mở rộng phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Bộ luật Lao động đối với người làm việc không có quan hệ lao động (người làm việc không trên cơ sở thuê mướn bằng hợp đồng lao động). Với điểm mới này, sẽ có thêm rất nhiều người lao động được hưởng lợi từ sự bảo vệ của pháp luật. Ngoài ra, Bộ luật bổ sung thêm một ngày nghỉ vào ngày liền kề với ngày Quốc khánh 2-9. Như vậy, dịp lễ Quốc khánh, người lao động sẽ được nghỉ hai ngày.

Quốc hội cũng đã thống nhất mở rộng khung thỏa thuận thời gian làm thêm tối đa không quá 4 giờ/ngày, không quá 40 giờ/tháng, thay vì 30 giờ/tháng và bổ sung quy định cụ thể về các trường hợp được tổ chức làm thêm giờ từ trên 200 - 300 giờ/năm, nhằm bảo đảm lợi ích lâu dài cho người lao động. Về thời giờ làm việc bình thường, Quốc hội giao Chính phủ căn cứ tình hình phát triển kinh tế - xã hội, đề xuất giảm giờ làm việc bình thường thấp hơn 48 giờ/tuần; đồng thời, giữ quy định “Nhà nước khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ đối với người lao động”.


Công nhân Nhà máy Z176 (Tổng cục CNQP) may hàng xuất khẩu.       Ảnh: PV

Một điểm đáng chú ý khác đó là quy định linh hoạt quyền lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp lao động sau khi tiến hành thủ tục hòa giải, không quy định sự can thiệp, giải quyết hành chính của Nhà nước đối với giải quyết tranh chấp lao động. Cùng với đó, người lao động tại DN được quyền thành lập hay tham gia một tổ chức đại diện do họ lựa chọn mà không nhất thiết phải là thành viên của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Đặc biệt, Bộ luật Lao động năm 2019 đã bỏ nội dung về hợp đồng mùa vụ, thay vào đó chỉ còn hai loại hợp đồng là: hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng lao động xác định thời hạn. Với quy định này, khi nhận người lao động vào làm việc thì người sử dụng lao động phải ký hợp đồng lao động và thực hiện đầy đủ chính sách về bảo hiểm xã hội cho người lao động.

Bộ luật Lao động năm 2019 cũng bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích của người sử dụng lao động. Cụ thể: Mở rộng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động; người sử dụng lao động được quyền ký kết nhiều lần hợp đồng lao động xác định thời hạn đối với lao động cao tuổi và lao động là người nước ngoài. Đặc biệt, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của DN mà được thực hiện trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận giữa các bên; DN chủ động xây dựng thang lương, bảng lương và định mức lao động; bổ sung quy định trường hợp phải ngừng việc trên 14 ngày làm việc thì tiền lương ngừng việc do hai bên thỏa thuận; quy định đối thoại định kỳ tại DN được nâng lên 1 lần/năm; quy định linh hoạt về đăng ký nội quy lao động bằng việc có thể ủy quyền cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện.

TIỆM CẬN HƠN CÁC TIÊU CHUẨN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ

Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), việc Bộ luật Lao động (sửa đổi) được thông qua tại Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XIV là bước tiến mới của Việt Nam trong việc đưa khuôn khổ pháp luật tiệm cận hơn các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Tiến sĩ Chang-Hee Lee, Giám đốc ILO Việt Nam khẳng định: “Đây là một tiến bộ quan trọng do những sửa đổi trong Bộ luật Lao động sẽ cải thiện đáng kể vấn đề việc làm và quan hệ lao động của Việt Nam, tạo nền tảng vững chắc cho hội nhập quốc tế và thương mại công bằng”. Theo đó, lần sửa đổi Bộ luật Lao động mới nhất này tạo khung pháp luật hoàn thiện hơn cho quan hệ việc làm, điều kiện lao động và chức năng đại diện của người sử dụng lao động và người lao động. Đồng thời, chú trọng hơn tới thực hiện thương lượng tập thể tự nguyện, một công cụ cần thiết đối với một nền kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình hội nhập toàn cầu sâu rộng.

Việc điều chỉnh tăng dần tuổi nghỉ hưu cũng sẽ tạo ra tác động lớn tới vấn đề việc làm và quan hệ lao động tại Việt Nam. Theo Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, việc điều chỉnh tăng dần tuổi nghỉ hưu là quyết sách rất lớn của Đảng, Nhà nước; là tầm nhìn có tính chiến lược nhằm đi trước đón đầu thách thức già hóa dân số. Đặc biệt, giải quyết mục tiêu bao trùm là vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng xã hội, vừa cân đối để đảm bảo công ăn việc làm, bảo toàn và phát triển bền vững quỹ bảo hiểm, giải quyết hài hòa việc bình đẳng và tiến tới giảm dần khoảng cách về giới. Việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu là xu hướng chung của thế giới nhưng cũng không dễ với bất cứ quốc gia nào, vì sẽ tác động rất lớn đến hàng chục triệu người lao động. Vì vậy, trong mỗi hoàn cảnh, đối tượng cụ thể phải có cách ứng xử khác nhau. Về nhóm lao động nghỉ hưu sớm, nhất là lĩnh vực lao động nặng nhọc, độc hại thì hiện nay Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã tiến hành lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương và các tập đoàn, doanh nghiệp, xác định 1.810 ngành nghề, lĩnh vực và công việc nặng nhọc, độc hại với số lượng khoảng trên 3 triệu người thuộc nhóm nghỉ hưu sớm. Nếu thêm điều kiện suy giảm thì họ sẽ được nghỉ hưu sớm hơn nữa.


Người lao động tại một doanh nghiệp trong nước sản xuất linh kiện điện tử. Ảnh: CTV

Đại diện cho tiếng nói của cộng đồng DN, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Vũ Tiến Lộc đánh giá, Bộ luật Lao động (sửa đổi) vừa được thông qua cho thấy tinh thần đổi mới và hội nhập của Việt Nam. Bộ luật sẽ tạo ra những đột phá mới trên hai hướng: bao trùm hơn và hội nhập hơn. Bao trùm hơn vì, lần đầu tiên Bộ luật đã đưa hơn 55 triệu người trong độ tuổi lao động ở nước ta vào phạm vi điều chỉnh để bảo vệ, thúc đẩy thực hiện quyền cơ bản được hiến định của người lao động là quyền có việc làm. Hội nhập hơn vì Bộ luật đã tiếp cận các tiêu chuẩn lao động quốc tế về lao động trẻ em, về lao động cưỡng bức, mở đường cho việc thành lập các tổ chức đại diện cho người lao động ở cơ sở ngoài hệ thống tổ chức của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam.

Những năm qua, các doanh nghiệp quân đội (DNQĐ) đã thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia lao động, phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng, góp phần giữ vững an ninh chính trị trên các địa bàn chiến lược, nhất là biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn... Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực cũng sẽ tác động trực tiếp đến hàng chục nghìn quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng và người lao động đang làm việc trong các DNQĐ. Theo đó, các đơn vị, DNQĐ cũng cần có những thay đổi trong chính sách lao động để phù hợp với các nguyên tắc chung của kinh tế thị trường và thể hiện trách nhiệm của Việt Nam đối với các cam kết quốc tế về lao động. Việc áp dụng và thực thi nghiêm các chế tài, quy định, điều khoản trong Bộ luật Lao động năm 2019 cũng là minh chứng sống động để khẳng định: Các DNQĐ, trong đó có doanh nghiệp quốc phòng, hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; hoàn toàn không có “luật riêng” hay “sân chơi riêng” giành cho các DNQĐ.

Có thể nói, Bộ luật Lao động 2019 với nhiều điểm mới đòi hỏi sự chuyên nghiệp và trách nhiệm của DN với người lao động. Rõ ràng, mục tiêu hướng đến thị trường lao động cạnh tranh, bình đẳng của DN vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của chính DN. Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu này, về phía DN cũng đang phải đối diện với nhiều thách thức, đặc biệt là khi Việt Nam vừa tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu, với nhiều quy định rất mới liên quan đến lĩnh vực lao động. Để luật sớm đi vào cuộc sống, Chính phủ cần ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành cụ thể và rõ ràng để DN dễ thực hiện và tránh phát sinh tiêu cực.

VŨ DUNG

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại