Đối thoại xã hội trong doanh nghiệp - vấn đề cần quan tâm

10/24/2019 10:52:03 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 29

CNQP&KT - Bộ luật Lao động được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2012 là một bước chuyển biến mới góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời giúp mối quan hệ lao động phát triển hài hòa, ổn định.

Trong đó, hoạt động đối thoại xã hội trong các doanh nghiệp ngày càng đóng vai trò quan trọng, góp phần giúp các doanh nghiệp tạo bước phát triển bền vững trong nền kinh tế thị trường hiện nay.

Tại Điều 7, Bộ luật Lao động nêu rõ: “Quan hệ lao động giữa người lao động hoặc tập thể lao động với người sử dụng lao động được xác lập qua đối thoại, thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, thiện chí, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau”. Còn trong Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 29/6/2013 Chính phủ quy định “Đối thoại tại nơi làm việc là việc trao đổi trực tiếp giữa người sử dụng lao động với người lao động hoặc đại diện tập thể người lao động với người sử dụng lao động, nhằm chia sẻ thông tin, tăng cường sự hiểu biết giữa người sử dụng lao động và người lao động để đảm bảo việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại nơi làm việc”. Như vậy, đối thoại tại nơi làm việc bao gồm: địa điểm diễn ra đối thoại, đối tượng tham gia đối thoại cũng như mục tiêu đối thoại cần đạt được.

Đối thoại xã hội giúp khẳng định vị trí, vai trò của người lao động trong doanh nghiệp thông qua việc người lao động nắm được thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; được trình bày ý kiến, quan điểm của bản thân về kế hoạch cũng như chính sách của doanh nghiệp; người lao động được coi như đối tác bình đẳng, độc lập với người sử dụng lao động khi thương lượng về các vấn đề quyền lợi cũng như điều kiện, thời gian làm việc và chế độ phúc lợi… Đối với doanh nghiệp, thông qua đối thoại xã hội, người chủ doanh nghiệp có cơ hội xem xét lại các vấn đề về sản xuất - kinh doanh, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm; tăng cường chia sẻ lợi ích, thông tin với người lao động; tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất - kinh doanh…

Đối thoại giữa Tổng giám đốc với BCH Công đoàn và người lao động của Tổng công ty Điện lực miền Trung. Ảnh: CTV

Trong thời gian tới, khi Việt Nam thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), với nền kinh tế mở cửa đem lại nhiều cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp quân đội (DNQĐ). Do vậy, thúc đẩy đối thoại xã hội đóng vai trò quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình toàn cầu hóa sản xuất, từ đó đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững và toàn diện. 

Những năm qua, đối với quan hệ lao động ở Việt Nam, việc đối thoại không chỉ diễn ra trong môi trường doanh nghiệp mà còn ở cấp ngành, địa phương và quốc gia. Chính vì vậy, các cuộc đối thoại không ngừng được tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Năm 2018, triển khai Nghị định 149/2018/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện quy chế dân chủ tại nơi làm việc, Công đoàn các cấp đã chủ động tham gia có hiệu quả xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ, tổ chức Hội nghị người lao động và đối thoại tại doanh nghiệp. Thông qua các cuộc đối thoại, những vướng mắc, khó khăn, bức xúc của doanh nghiệp và người lao động đã được tập trung giải quyết.

Tuy nhiên, hoạt động đối thoại xã hội trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, trong đó có các DNQĐ, còn những bất cập, đó là: Nhiều doanh nghiệp thực hiện không đầy đủ nội dung dân chủ, chưa tổ chức đối thoại tại nơi làm việc, thậm chí vi phạm các quy định của pháp luật về lao động, nợ lương, nợ bảo hiểm xã hội; phương pháp tuyên truyền, vận động thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn đơn điệu, chưa đa dạng; nhiều tổ chức Công đoàn chưa thực sự phát huy được vai trò trong việc đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của người lao động; người lao động chưa nhận thức được hết quyền lợi, chế độ của mình. Nguyên nhân chính dẫn đến những tồn tại trên là do sự quan tâm chưa thường xuyên của cấp ủy đảng, công đoàn cơ sở các cấp; việc lựa chọn nội dung đối thoại ở nơi làm việc còn chưa chú trọng vào các vấn đề trọng tâm, nhằm đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng cho người lao động. Trên thực tế còn có doanh nghiệp cố tình không tổ chức thực hiện đối thoại sau khi đã được hướng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở.

  Trong điều kiện Việt Nam đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hệ thống quan hệ lao động có sự thay đổi căn bản về chất so với thời bao cấp. Thực tế thời gian qua cho thấy, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về lao động, xuất phát từ các lợi ích khác nhau, đại diện Nhà nước và các đối tác xã hội là Công đoàn và một số tổ chức đại diện người sử dụng lao động đã có những quan điểm khá khác nhau về một loạt nội dung, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến chính sách tiền lương. Ở cấp doanh nghiệp, những xung đột lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động đã được bộc lộ qua hàng nghìn vụ tranh chấp lao động cá nhân, tập thể, đình công. Điều đáng quan tâm là phần lớn các cuộc đình công xảy ra đều mang tính tự phát, không diễn ra quá trình thương lượng, đối thoại trước đó theo quy định của pháp luật và không do Công đoàn tổ chức, lãnh đạo.

Thực tiễn trên đòi hỏi phải có cơ chế, công cụ phù hợp và hiệu quả, có khả năng dung hòa, cân bằng lợi ích của các bên. Theo kinh nghiệm của hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường, đối thoại xã hội chính là cơ chế, công cụ điều chỉnh quan hệ lao động phù hợp, có khả năng giải quyết các yêu cầu trên. Để việc đối thoại xã hội tại các doanh nghiệp phát huy hiệu quả rõ nét hơn, trở thành công cụ đóng vai trò chính trong việc phân phối lợi ích và thành quả của sự phát triển trong nền kinh tế thị trường, xin đề xuất một số giải pháp sau đây:

Một là, cần nắm vững quy chế đối thoại, nội dung của cuộc đối thoại cũng như các nguyên tắc phải tuân thủ khi thực hiện đối thoại. Nắm vững quy định về tổ chức một cuộc đối thoại, đó là: quyết định tổ chức cuộc đối thoại, địa điểm, thời gian tiến hành đối thoại…

Hai là, trước khi tham gia đối thoại, các thành viên phải nghiên cứu kỹ lưỡng, hiểu cặn kẽ tinh thần của nội dung đối thoại và các chế độ, chính sách liên quan; lựa chọn người đối thoại có khả năng thuyết trình tốt, am hiểu sâu sắc những vấn đề cần đối thoại; nâng cao khả năng hùng biện thông qua cách nói, cách diễn đạt, trình bày các nội dung cũng như khi thực hiện phản biện. Đại diện của mỗi bên cần lắng nghe, tiếp nhận đầy đủ các thông tin khi trao đổi trong đối thoại.

Ba là, cần xác định những thông tin liên quan và hỗ trợ cho việc đối thoại; kiểm tra kỹ nguồn thông tin, bảo đảm độ chính xác và có căn cứ cần thiết của những thông tin thu thập được; lựa chọn các thông tin, số liệu có sức thuyết phục để sử dụng, loại trừ những thông tin số liệu có khả năng làm sai lệch hoặc không có tính thuyết phục khi đàm phán, thương lượng trong đối thoại.

Bốn là, phát huy vai trò độc lập của đại diện người lao động, tổ chức công đoàn một cách thực sự, không lệ thuộc hoặc bị chi phối bởi người đứng đầu doanh nghiệp. Vai trò của người đại diện thể hiện nguyện vọng chung để giải quyết các vướng mắc, khác biệt, xây dựng cơ chế đồng thuận phù hợp với lợi ích chung.

Năm là, tăng cường giáo dục ý thức người lao động trong quá trình đối thoại, tránh bị kích động, lôi kéo hoặc quá khích dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật. Người sử dụng lao động, người lao động có nghĩa vụ thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong quá trình đối thoại, người lao động hết sức tránh việc bị lợi dụng, trở thành công cụ để các đối tượng chống đối kích động biểu tình, đình công, lãn công...

Kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển với nhiều hình thức hoạt động phức tạp đòi hỏi sự thống nhất giữa các chủ thể tham gia. Trong quan hệ lao động vừa có sự thống nhất, vừa có sự mâu thuẫn, người sử dụng lao động luôn phải đối thoại với người lao động về tất cả những vấn đề liên quan trong quá trình hợp tác và phát triển. Đối thoại để tìm ra định hướng chung, giải quyết tranh chấp, cải thiện mối quan hệ lao động trong doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp luôn phải linh hoạt trong các tình huống đối thoại với các chủ thể để tạo động lực phát triển ổn định, bền vững.

Đại tá, TS. NGÔ QUỐC HẢI

Khoa Chiến lược, Học viện Quốc phòng

__________________

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật Lao động (Luật số 10/2012-QH13) ngày 2/7/2012.

2. Nghị định 149/2018/NĐ-CP, ngày 7/11/2018 của Chính phủ.

3. Báo cáo Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lần thứ 5 (khoá XI).

4. Luật Bảo hiểm xã hội (Luật số 58/2014/QH13) ngày 20/11/2014.

5. Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014.

6. Luật Việc làm (Luật số 38/2013/QH13) ngày16/11/2013.

 

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại