Xây dựng tiềm lực quốc phòng trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

4/17/2019 2:53:20 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 28

CNQP&KT - Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học, cùng sự phát triển đột phá của internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo. CMCN 4.0 đã “làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới với đặc điểm là tận dụng một cách triệt để sức mạnh lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin”1.

Việt Nam cũng không nằm ngoài sự tác động đó, và việc xây dựng tiềm lực quốc phòng được dự báo sẽ chịu tác động vô cùng mạnh mẽ với nhiều thời cơ cũng như thách thức mới.

Theo Điều 2, Luật Quốc phòng Việt Nam năm 2018, tiềm lực quốc phòng là “khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở trong nước và ngoài nước có thể huy động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”2. Tiềm lực quốc phòng được tạo bởi 4 yếu tố chính: tiềm lực kinh tế; tiềm lực chính trị - tinh thần; tiềm lực khoa học - công nghệ và tiềm lực quân sự.

Đại hội XII của Đảng đã xác định: Phải tiếp tục “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh”3, tạo nền tảng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Đây là quan điểm cơ bản, thể hiện tư tưởng nhất quán của Đảng ta để định hướng xây dựng tiềm lực quốc phòng Việt Nam.

Từ cách đặt vấn đề trên, có thể hiểu, những tác động của CMCN 4.0 đến xây dựng tiềm lực quốc phòng Việt Nam gồm: Tác động đến xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, tác động đến xây dựng tiềm lực kinh tế, tác động đến tiềm lực khoa học - công nghệ và tác động đến xây dựng tiềm lực quân sự.

Tiềm lực chính trị - tinh thần được quan niệm là “khả năng về chính trị - tinh thần có thể huy động để tạo thành sức mạnh vật chất hiện thực nhằm thực hiện những nhiệm vụ nhất định”4. Tiềm lực chính trị - tinh thần biểu hiện ở hệ tư tưởng, chế độ chính trị - xã hội, hệ thống các chính sách đối nội, đối ngoại của Nhà nước; trình độ nhận thức, niềm tin, ý chí quyết tâm, trạng thái tâm lý… của các thành viên trong xã hội trước những nhiệm vụ đặt ra. Với những tiến bộ và sự phát triển vượt bậc của CMCN 4.0 giúp cho việc tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân nhanh và thuận tiện hơn, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với việc xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần. Bởi sự tiến bộ của internet vạn vật cũng làm cho các yếu tố tiêu cực dễ lây lan, thâm nhập vào quần chúng. Không những vậy, các thế lực thù địch sẽ ra sức lợi dụng những thành tựu của CMCN 4.0 làm phương tiện để xuyên tạc, chống phá, bôi nhọ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân.

Tiềm lực kinh tế là “khả năng về kinh tế (bao gồm cả kinh tế quân sự) có thể huy động để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng hoặc tiến hành chiến tranh…”5. Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, việc tiếp cận thành tựu CMCN 4.0 với những cải cách công nghệ mang tính đột phá là cơ hội cho Việt Nam tham gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu, thúc đẩy tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, sớm thực hiện được mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên, CMCN 4.0 cũng đang đặt ra nhiều thách thức đối với việc xây dựng tiềm lực kinh tế Việt Nam. Cụ thể, để tiếp cận những thành tựu của CMCN 4.0 đòi hỏi phải sử dụng nguồn lực tài chính lớn trong khi ngân sách của nước ta còn hạn hẹp. Nhu cầu đầu tư vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự công nghệ cao có thể dẫn đến chạy đua vũ trang rất tốn kém và càng phải phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ các nước phát triển. Nền kinh tế yếu kém thì khả năng huy động nguồn nhân lực, vật lực, tài chính cho các nhiệm vụ quốc phòng sẽ eo hẹp, gây khó khăn cho quá trình hiện đại hóa quân đội.


Nhiều doanh nghiệp trong nước đầu tư robot ABB thế hệ mới vào sản xuất.      Ảnh: CTV

Tiềm lực khoa học công nghệ là “khả năng về khoa học và công nghệ có thể huy động để giải quyết những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của xã hội”6 mà trọng tâm là phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Cuộc CMCN 4.0 là cơ hội để Việt Nam rút ngắn khoảng cách khoa học quân sự với khu vực và thế giới. Khoa học công nghệ quân sự phát triển góp phần sản xuất ra vũ khí, trang bị hiện đại, đáp ứng yêu cầu nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Tuy nhiên, CMCN 4.0 cũng đặt ra nhiều thách thức cho sự phát triển khoa học công nghệ quân sự, vì trình độ phát triển khoa học quân sự và công nghệ quân sự của nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế; đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ quân sự có số lượng ít, chất lượng không đều và cơ cấu còn chưa hợp lý. Sự đầu tư cơ sở vật chất, điều kiện đảm bảo cho phát triển khoa học công nghệ quân sự còn thấp so với các nước. Đây là những khó khăn rất lớn cho việc xây dựng, phát triển tiềm lực khoa học công nghệ Việt Nam trước tác động của CMCN 4.0.

Tiềm lực quân sự là “khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động để tạo thành sức mạnh hiện thực phục vụ cho nhiệm vụ quân sự và tiến hành chiến tranh”7. Tiềm lực quân sự được thể hiện rõ nhất ở sức mạnh quân sự của một nước, trong đó được thể hiện ở số lượng, chất lượng của lực lượng vũ trang, vũ khí, trang bị kỹ thuật và nghệ thuật quân sự (cách đánh). Với những thành tựu của CMCN 4.0, nếu ta không kịp thời nắm bắt, tiếp cận thì rất dễ bị tụt hậu. Trước hết, tác động tới nguồn nhân lực quân sự mà trực tiếp là tới bản lĩnh, tác phong, trình độ kỹ chiến thuật của cả người chỉ huy cũng như chiến sĩ. CMCN 4.0 cũng tác động đến vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, làm xuất hiện những hệ thống vũ khí thế hệ mới (vũ khí công nghệ cao) với những tính năng mới, như: vũ khí điều khiển chính xác thế hệ mới, vũ khí tàng hình, vũ khí tác chiến điện tử, vũ khí năng lượng định hướng (vũ khí la-de, vũ khí chùm hạt…), vũ khí vi-ba, pháo điện từ, vũ khí thông minh và vũ khí vũ trụ…

Do vậy, để xây dựng tiềm lực quốc phòng Việt Nam trước những tác động của CMCN 4.0, theo chúng tôi thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, quan tâm xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần vững mạnh, tăng sức đề kháng với những tác động tiêu cực của CMCN 4.0. Theo đó, việc xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần phải được coi là thành tố cơ bản, quan trọng nhất của tiềm lực quốc phòng. Trong đó, trọng tâm là xây dựng lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy có hiệu quả vai trò của Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng (Bộ Tư lệnh 86), Lực lượng 47 nhằm đập tan những luận điệu xuyên tạc và hành động chống phá của các thế lực thù địch.

Hai là, xây dựng tiềm lực kinh tế đủ mạnh, sẵn sàng đáp ứng các nguồn lực cho quốc phòng và chiến tranh. Trước hết, cần tiếp tục thực hiện tốt việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, lĩnh vực và địa phương. Bảo đảm mỗi bước tăng trưởng về kinh tế phải gắn với sự gia tăng tích lũy của tiềm lực kinh tế. Đồng thời, tích cực ứng dụng những tiến bộ của CMCN 4.0 trong xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp theo hướng lưỡng dụng, bố trí hợp lý trên các vùng, miền, vừa đáp ứng nhu cầu dân sinh, vừa phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng khi cần thiết. Tiếp tục coi trọng xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược biên giới, biển, đảo, nhằm phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân gắn với tham gia xây dựng cơ sở, địa bàn vững mạnh; gắn phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) ngày càng vững chắc.

Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ quân sự đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội. Cần chủ động nắm bắt thông tin, cập nhật thường xuyên các xu hướng phát triển khoa học công nghệ quân sự của các nước tiên tiến trên thế giới. Coi trọng phát triển tiềm lực khoa học công nghệ theo hướng tự lực, tự cường, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt là với các đối tác chiến lược về khoa học công nghệ quân sự. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ quân sự và đầu tư cơ sở hạ tầng, trang, thiết bị phục vụ nghiên cứu, ứng dụng, triển khai những thành tựu khoa học công nghệ quân sự vào phục vụ nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và hiện đại hóa Quân đội. Xây dựng một nền công nghiệp quốc phòng đủ mạnh để có thể sản xuất ra các loại vũ khí công nghệ cao, đáp ứng yêu cầu của chiến tranh hiện đại.

Bốn là, xây dựng tiềm lực quân sự chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, chú trọng phát triển nguồn nhân lực quân sự. Đầu tư xây dựng đồng bộ các yếu tố của tiềm lực quân sự, trọng tâm là xây dựng nguồn nhân lực quân sự, vũ khí, trang bị kỹ thuật và cách đánh. Nâng cao trình độ tổ chức, năng lực lãnh đạo quản lý, chỉ huy của đội ngũ cán bộ thích ứng với các loại hình chiến tranh mới như: tác chiến chiều sâu, chiến tranh bằng tiến công hỏa lực, chiến tranh phi trực tiếp tiếp xúc, phi đối xứng… Tăng cường hiện đại hóa vũ khí, trang bị; hình thành các hình thức và phương pháp tác chiến mới, phòng chống đánh trả kẻ thù. Tổ chức lại Quân đội theo hướng tinh gọn, nâng cao khả năng hiệp đồng quân, binh chủng, đặc biệt theo vùng, khu vực phòng thủ.

Cuộc CMCN 4.0 đã và đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện đối với thế giới, đến tất cả các quốc gia, dân tộc; đến các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, nghiên cứu, tìm hiểu về CMCN 4.0, dự báo những tác động của nó đối với xây dựng tiềm lực quốc phòng Việt Nam là yêu cầu khách quan, đồng thời có ý nghĩa cấp thiết để có chiến lược xây dựng tiềm lực quốc phòng Việt Nam trong điều kiện mới, góp phần xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.

Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN TRỌNG XUÂN 

Thiếu tá, ThS. PHÙNG QUANG PHÁT

Khoa Kinh tế chính trị - Học viện Chính trị

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chỉ thị 16/CT- TTg ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc “Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0”, tr.2.

2. Luật Quốc phòng, ngày 8 tháng 6 năm 2018 của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 148.

4, 5, 6, 7. Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, H.2004, tr.953, 954.

 

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại