Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và hai vấn đề cần quan tâm đối với công nghiệp quốc phòng

2/27/2018 10:08:20 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 30

(CNQP&KT) - Những năm gần đây, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (còn gọi là cách mạng công nghiệp 4.0) nổi lên ở một số nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới đã và đang tác động nhất định đến Việt Nam, trong đó có ngành Công nghiệp quốc phòng (CNQP).

Thách thức của cuộc cách mạng 4.0 đang đặt ra hai vấn đề cơ bản đối với CNQP Việt Nam, đó là định hướng đổi mới công nghệ và quan tâm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Trong lịch sử phát triển, thế giới đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng công nghiệp thứ nhất (1784) sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hoá sản xuất; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (1870) sử dụng năng lượng điện để tạo nên nền sản xuất quy mô lớn; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (1969) sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hoá sản xuất. Và hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được hình thành những năm gần đây dựa trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba.

Năm 2011, tại Hội chợ Công nghệ Hannover (Cộng hòa Liên bang Đức), thuật ngữ “Công nghiệp 4.0” lần đầu tiên xuất hiện. Đến năm 2012, thuật ngữ này được sử dụng trong giới nghiên cứu và các hiệp hội công nghiệp hàng đầu của Đức nhằm cải thiện quy trình quản lý và sản xuất trong các ngành chế tạo thông qua điện toán hóa. Ngày 20/1/2016, tại Davos (Thụy Sỹ), Diễn đàn Kinh tế thế giới khai mạc với chủ đề “Làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, cũng từ đây, thuật ngữ “Công nghiệp 4.0” được sử dụng rộng rãi trên thế giới.

Đặc trưng của cách mạng công nghiệp 4.0, đó là: Xu hướng kết hợp công nghệ cảm biến mới, phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây và kết nối internet vạn vật thúc đẩy phát triển máy móc tự động hóa và hệ thống sản xuất thông minh; công nghệ in 3D cho phép sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh nhờ nhất thể hóa các dây chuyền sản xuất không qua giai đoạn lắp ráp các thiết bị phụ trợ; công nghệ nano và vật liệu mới tạo ra các cấu trúc vật liệu mới ứng dụng rộng rãi trong hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế; trí tuệ nhân tạo và điều khiển học cho phép con người kiểm soát từ xa mọi thứ, không giới hạn về không gian, thời gian, tương tác nhanh và chính xác hơn. Từ các đặc trưng trên, có thể thấy:

Thứ nhất, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cho phép mở ra kỷ nguyên mới của đầu tư, năng suất và mức sống gia tăng. Những thành công trong lĩnh vực khoa học rô-bốt, internet vạn vật, điện thoại di động và công nghệ in 3D sẽ góp phần thúc đẩy năng suất lao động toàn cầu.

Thứ hai, cuộc cách mạng này không chỉ đơn thuần là sự tiếp nối của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, mà đó còn là sự khác biệt lớn về tốc độ phát triển, phạm vi và mức độ tác động. Nó đang làm biến đổi hầu hết nền công nghiệp ở mọi quốc gia cả chiều rộng và chiều sâu trong toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị.

Thứ ba, bên cạnh việc tìm ra những nguồn hoặc dạng năng lượng mới và công nghệ sử dụng, khai thác, còn có các công nghệ giúp sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực hiện có bằng các công nghệ nhúng, công nghệ phái sinh…

Thứ tư, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 còn tạo ra những thay đổi trong quan niệm về đổi mới công nghệ, trang thiết bị sản xuất. Hiện nay, giá trị gia tăng của ngành sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào việc gia công vật liệu thành sản phẩm. Tuy nhiên, công nghiệp 4.0 lại dựa trên nhu cầu của khách hàng qua hệ thống kết nối internet, do đó, nhà sản xuất sẽ chỉ cập nhật phần mềm chứ không cần bán sản phẩm phần cứng. Hơn nữa, thiết bị sử dụng trong sản xuất cũng chỉ cần cập nhật phần mềm để thêm tính năng mới mà không cần phải thay thế chi tiết hay bộ phận.


Công ty Cổ phần cơ khí Sông Thu (thuộc Tổng Công ty Sông Thu) sử dụng  robot tự động phục vụ sản xuất.                                                                                                       Ảnh: Trần Hoàng

Có thể khẳng định, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nền kinh tế trên toàn thế giới hiện nay và Việt Nam không nằm ngoài xu thế chung đó. Công nghiệp 4.0 đã và đang đặt ra nhiều vấn đề với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó có hiện đại hóa CNQP nòng cốt. Để tiếp thu những tri thức mới và giá trị mà cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại; đồng thời, sẵn sàng đón nhận thách thức, chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tiếp cận, hội nhập với sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ thế giới, theo chúng tôi, ngành CNQP cần tập trung giải quyết hai vấn đề cơ bản sau:

Một là, CNQP cần chủ động, tích cực đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ và nhanh chóng ứng dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 vào sản xuất.

Các nghiên cứu cho thấy, tất cả công nghệ của công nghiệp 4.0 đều rất cần thiết và đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sản xuất các sản phẩm quân sự. Tuy nhiên, để tiếp cận được với những thành tựu công nghệ hiện đại, cần phải đầu tư các nguồn lực cho CNQP. Theo đó, cần khai thác tối đa các nguồn lực, đẩy mạnh hoạt động đầu tư cho khoa học - công nghệ; tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học - công nghệ với sản xuất; thúc đẩy phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng lực sản xuất của CNQP. Nhà nước cần kiến tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích các doanh nghiệp CNQP tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ; tổ chức các chương trình trọng điểm quốc gia về phát triển một số lĩnh vực công nghệ chiến lược của CNQP.

Hơn nữa, trong bối cảnh kinh tế thế giới đang chuyển nhanh sang kinh tế tri thức, chúng ta cần đổi mới tư duy, cách tiếp cận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó có hiện đại hóa CNQP. Như vậy, đòi hỏi việc đẩy nhanh quá trình chuyển từ mô hình phát triển truyền thống dựa vào tăng số lượng đầu vào, khai thác tài nguyên, gia công lắp ráp sang mô hình phát triển dựa vào tri thức, công nghệ, nhân lực chất lượng cao. Lấy tri thức, công nghệ là nội dung then chốt để thu hẹp khoảng cách phát triển. Đẩy mạnh liên kết, hợp tác, hội nhập với các nước có nền CNQP phát triển. Tăng cường phát triển các cụm liên kết ngành CNQP với một số ngành công nghiệp nền tảng hoặc mũi nhọn như cơ khí chế tạo, điện tử, hóa chất, công nghiệp đóng tàu... Mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ nói chung và khoa học - công nghệ quân sự nói riêng; chủ động thúc đẩy hình thành quan hệ đối tác CNQP với một số đối tác sở hữu công nghệ nguồn.

Bên cạnh đó, cần phát triển các ngành công nghiệp nòng cốt tạo nền tảng cho hiện đại hóa CNQP trong mối quan hệ chặt chẽ với hiện đại hóa công nghiệp dân sinh, CNQP động viên. Lựa chọn một số lĩnh vực công nghệ nền tảng của cách mạng công nghiệp 4.0 để mạnh dạn đầu tư và đi thẳng vào công nghệ cao như công nghệ thông tin, vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ nanô, rô-bốt... Đây là những ngành đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn, thời gian thu hồi vốn dài, nên Nhà nước cần có tầm nhìn và chiến lược lâu dài, tạo cơ chế, chính sách hỗ trợ hiệu quả cho CNQP. Đồng thời, phát triển các ngành CNQP mũi nhọn, có lợi thế và điều kiện phát triển trong nhóm công nghiệp trọng yếu, công nghệ cao như: năng lượng mới, cơ khí chế tạo, hóa chất, công nghiệp hỗ trợ, công nghệ thông tin, công nghiệp đóng tàu...

Hai là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho CNQP nòng cốt.

Cùng với đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, cần tích cực phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao cho CNQP. Muốn vậy, cần chủ động đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo nguồn nhân lực cho CNQP ở các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu, phấn đấu đạt đến trình độ khu vực và quốc tế. Ưu tiên tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghệ mũi nhọn của công nghiệp 4.0 và ngành CNQP lợi thế của Việt Nam. Cần tăng cường hợp tác với một số đối tác sở hữu công nghệ nguồn và đang dẫn dắt cách mạng công nghiệp 4.0; tranh thủ tiếp cận công nghệ mới kết hợp đào tạo nguồn nhân lực, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và phát triển thị trường khoa học - công nghệ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và hiện đại hóa CNQP nói riêng.

Nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang hình thành trên thế giới hiện nay đã và đang là nhân tố khách quan đòi hỏi giới nghiên cứu khoa học quân sự Việt Nam nói chung và CNQP nói riêng phải có tư duy, hành động và giải pháp có tính đột phá để nâng cao hiệu quả; tăng cường nguồn lực, tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại cho lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới như Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra.

Đại tá, PGS. TS. TRƯƠNG TUẤN BIỂU

  Đại úy, ThS.NGUYỄN QUANG TẠO

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại