Tăng cường tiềm lực quốc phòng trong hội nhập kinh tế quốc tế

7/25/2017 11:46:54 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 41

(CNQP&KT) - Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, củng cố tiềm lực quốc phòng. Việc xác định những giải pháp nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng trong điều kiện Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Có thể nói, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu khách quan và trở thành vấn đề quan tâm của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam hiện nay, với chủ trương “nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước”1, là định hướng nhất quán, là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng trong quá trình đổi mới đất nước. Theo đó, Việt Nam đã “hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu”2. Việc tăng cường hợp tác và đối thoại chiến lược với nhiều đối tác, nâng cấp quan hệ song phương với một số quốc gia thành đối tác chiến lược và đối tác hợp tác toàn diện, đưa các quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và có hiệu quả hơn... đã góp phần làm cho tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố và gắn kết chặt chẽ hơn.

Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, như: Tình trạng bất ổn trong đời sống chính trị thế giới và khu vực; xung đột dân tộc, xung đột vũ trang, ly khai, khủng bố, bạo loạn chính trị, chiến tranh công nghệ cao… Cùng với đó, những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống tiếp tục diễn biến phức tạp, đã tạo ra những thách thức không nhỏ đến quá trình củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng ở nước ta. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp, các nền kinh tế khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, cũng tạo ra sức ép lớn đối với nước ta và có thể nảy sinh những thách thức mới, như: Sự mất cân đối trong đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài vào nước ta; chênh lệch giàu nghèo gia tăng; sự mơ hồ, mất cảnh giác về chính trị… Trong khi đó, mặc dù nền kinh tế nước ta đã có dấu hiệu khởi sắc nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Những biểu hiện xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra khá phức tạp. Mặt khác, bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tất cả những vấn đề trên đã và đang tác động không nhỏ tới việc củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng.

Đại biểu Quân đội các nước ASEAN xem vũ khí do CNQP Việt Nam sản xuất được trưng bày tại Giải bắn súng quân dụng các nước ASEAN năm 2014.                                             Ảnh: TRẦN HOÀNG

Để hạn chế những mặt tiêu cực, phát huy những mặt tích  cực nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước về kinh tế và quốc phòng trong các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước và chính quyền các cấp trong việc thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng. Quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng trong tình hình mới. Nhà nước cần thống nhất quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh trong tổng thể chung của chiến lược phát triển kinh tế của từng giai đoạn. Kết hợp chặt chẽ giữa chấn chỉnh, kiện toàn với chăm lo bồi dưỡng nâng cao năng lực trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ chuyên trách làm tham mưu cho cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng, ngang tầm với nhiệm vụ trong tình hình mới.

Hai là, phát huy nội lực, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ để tạo nền tảng cho tăng cường tiềm lực quốc phòng trong quá trình hội nhập. Để thực hiện tốt giải pháp này, trước hết cần phải xây dựng đường lối, chính sách độc lập tự chủ về phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với đó, tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi đây là nhiệm vụ trung tâm để tăng cường thực lực kinh tế của đất nước và tăng cường tiềm lực quốc phòng. Theo đó, cần có chính sách hợp lý để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn cho đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Ba là, đẩy mạnh đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế và tăng cường tiềm lực quốc phòng. Trước mắt, cần xây dựng chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và tăng cường tiềm lực quốc phòng. Phải xác định rõ chiến lược, mục tiêu, lộ trình, cơ chế, chính sách tổng thể, đồng thời, làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và tăng cường tiềm lực quốc phòng. Bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực và tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực.

Bốn là, phát huy vai trò của Quân đội trong thực hiện mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế với củng cố quốc phòng. Theo đó, Quân đội phải là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho các hoạt động hội nhập quốc tế. Đồng thời, Quân đội cùng toàn Đảng, toàn dân đấu tranh trên các mặt trận kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa để bảo vệ đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế. Chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương trong tham gia quy hoạch, thẩm định các dự án đầu tư nước ngoài, bảo đảm sự thống nhất giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với chiến lược củng cố quốc phòng - an ninh. Tích cực tham gia xây dựng kinh tế vừa tạo điều kiện cho tăng cường hội nhập quốc tế, vừa tăng cường tiềm lực quốc phòng.

Năm là, đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các quốc gia trên thế giới. Trước hết, tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương và nhiệm vụ đối ngoại được xác định trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Hội nhập quốc tế”; Nghị quyết Đảng bộ Quân đội lần thứ X, trực tiếp là Nghị quyết 806-NQ/QUTƯ của Quân ủy Trung ương về “Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng theo phương châm: “Tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”, nâng cao năng lực đánh giá, dự báo tình hình, vận dụng sáng tạo đường lối đối ngoại của Đảng để xử lý đúng đắn những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong quan hệ quốc tế về lĩnh vực quốc phòng. Trong quá trình thực hiện các hoạt động hợp tác về quốc phòng, an ninh cần gắn kết chặt chẽ và tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập về kinh tế, chính trị và văn hóa - xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, chú trọng mở rộng hơn nữa cơ chế đối thoại quốc phòng cấp cao với các nước đối tác để tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin trong hợp tác quốc tế về quốc phòng.

Sáu là, đẩy mạnh hợp tác với quân đội các nước trong phát triển công nghiệp quốc phòng (CNQP), nhất là các nước lớn và các nước công nghiệp phát triển, nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tranh thủ nguồn lực về vốn, khoa học công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến để triển khai thực hiện có hiệu quả quy hoạch xây dựng, phát triển CNQP theo Nghị quyết số 06 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đến 2020 và những năm tiếp theo”. Từng bước xây dựng nền CNQP độc lập, tự chủ, hiện đại và gắn kết giữa CNQP với công nghiệp quốc gia. Đẩy mạnh hợp tác thương mại quốc phòng với quân đội các nước, nhất là các nước bạn bè truyền thống và các nước công nghiệp phát triển nhằm cung cấp cho Quân đội những vũ khí, trang bị kỹ thuật phù hợp với nghệ thuật quân sự Việt Nam và từng bước tự đảm bảo vũ khí, khí tài hiện đại cho Quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

TS. Trịnh Xuân Việt

Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, “Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII”, Nxb CTQG, H.2016, tr 313.

2. Đảng Cộng Sản Việt Nam, “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII”, Nxb CTQG, H 2016, tr.98.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại