Chuyển đổi số trong Quân đội gắn liền với đảm bảo an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu

10/30/2024 10:45:53 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 39

CNQP&KT - Chuyển đổi số là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển ngày nay. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định thực hiện chuyển đổi số và xây dựng Chính phủ điện tử là một trong những chủ trương lớn nhằm đưa đất nước bứt phá, phát triển ngang tầm khu vực và thế giới. Qua phân tích thực trạng chuyển đổi số, những quy định về bảo đảm an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu, bài báo đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi số trong Quân đội hiện nay.

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG QUÂN ĐỘI

Trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, chuyển đổi số (CĐS) góp phần quan trọng nâng cao sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho Quân đội ứng phó kịp thời với những thách thức mới. Thực hiện chủ trương, định hướng chiến lược của Đảng, Nhà nước về CĐS quốc gia, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân quyết liệt thực hiện xây dựng, củng cố hạ tầng kết nối mạng, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, CĐS trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng Quân đội hiện đại đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


Quang cảnh Hội nghị tập huấn chuyển đổi số lực lượng công nghệ thông tin toàn quân năm 2024.  Ảnh: MẠNH HÙNG

Quá trình triển khai, công tác CĐS luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao trong định hướng, xây dựng chiến lược và triển khai các chương trình CĐS của Thủ trưởng các cấp. Bên cạnh đó, nhận thức về sự cần thiết của CĐS trong đội ngũ cán bộ đã có nhiều chuyển biến. Nhiều đơn vị đã chủ động phối hợp với Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel), Bộ Tư lệnh 86 (BTL 86), các học viện, nhà trường và các đối tác khác để xây dựng các giải pháp phục vụ CĐS của ngành. Việc xây dựng và triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) theo các nghiệp vụ để phục vụ công tác quản lý, chỉ huy điều hành cơ bản đã đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của các đơn vị. Tuy nhiên, quá trình CĐS nói chung và triển khai ứng dụng các hệ thống CNTT nói riêng tại các đơn vị vẫn tồn tại một số khó khăn, như: Thiếu nguồn nhân lực CNTT; nguồn kinh phí, hạ tầng kỹ thuật còn hạn chế; các biểu mẫu, danh mục dùng chung, ký mã hiệu, mã định danh cho người và trang - thiết bị kỹ thuật chưa được chuẩn hóa; các ứng dụng CNTT đang triển khai vẫn mang tính rời rạc, chưa liên thông, chưa chia sẻ dữ liệu dùng chung, chưa phát huy được tính tái sử dụng từ các hệ thống có sẵn; nhiều ứng dụng chưa có giải pháp giám sát, bảo đảm ATTT; hoạt động quân sự, quốc phòng có tính đặc thù, yêu cầu bảo mật cao, nhiều tài liệu quản lý theo cơ chế quản lý tài liệu mật (mật, tuyệt mật, tối mật) ảnh hưởng tới việc số hóa và chia sẻ dữ liệu…

Những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân quyết liệt thực hiện xây dựng, củng cố hạ tầng kết nối mạng, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng Quân đội hiện đại.

MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ ATTT VÀ BẢO MẬT DỮ LIỆU GẮN VỚI CĐS

Từ thực trạng trên, việc xây dựng và vận hành các hệ thống ứng dụng CNTT trong Quân đội phải đi liền với việc bảo đảm ATTT và bảo mật dữ liệu. Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư quy định một số nội dung về ATTT và bảo mật đối với các tài liệu quân sự, máy tính, phần mềm, hệ thống mạng và Thông tư quy định rõ về quy trình ứng cứu, xử lý sự cố ATTT trong Bộ Quốc phòng, cụ thể:

Bảo đảm ATTT đối với các tài liệu quân sự

Quản lý tài liệu điện tử quân sự: Phải được soạn thảo lưu trữ trên máy tính do đơn vị cấp, không được sử dụng máy tính cá nhân; Phải được phân loại theo cấp độ mật; Nếu là tài liệu mật phải có giải pháp của cơ yếu trong việc lưu trữ và truyền tải; Xóa tài liệu mật phải có giải pháp xóa dữ liệu an toàn…

Gửi tài liệu điện tử quân sự qua mạng máy tính quân sự: Tài liệu điện tử quân sự không mật được gửi qua mạng máy tính quân sự và chỉ được thực hiện qua các hệ thống ứng dụng, dịch vụ đã được kiểm tra ATTT, an ninh mạng và được cơ quan CNTT cung cấp; Tài liệu điện tử quân sự có độ mật chỉ được chuyển, nhận qua mạng máy tính quân sự khi có giải pháp bảo mật cơ yếu.

Quản lý vật mang tin điện tử: Vật mang tin điện tử sử dụng cho lưu trữ, trao đổi tài liệu điện tử quân sự phải có giải pháp bảo đảm ATTT, an ninh mạng do cơ quan quản lý CNTT hoặc cơ quan cơ yếu cấp phát; Xóa an toàn tất cả các thông tin trên vật mang tin điện tử khi không sử dụng.


Cán bộ Bộ Tư lệnh 86 (Bộ Quốc phòng) kiểm tra công tác an toàn thông tin, an ninh mạng tại Lữ đoàn 189 (Quân chủng Hải quân).   Ảnh: DUY ANH

Bảo đảm ATTT cho máy tính và phần mềm, dịch vụ hoạt động trên mạng máy tính quân sự

Đối với máy tính: Đặt mật khẩu quản trị có độ khó phù hợp; Phải ngắt (vô hiệu hóa) các tính năng: Wifi, Bluetooth, GPS, Micro, Camera...; Xóa dữ liệu an toàn khi chuyển đổi mục đích sử dụng hoặc sửa chữa, thanh lý; Không kết nối dùng chung các thiết bị như máy in, máy photo, điện thoại thông minh… giữa mạng máy tính quân sự và máy tính kết nối mạng Internet.

Đối với máy chủ: Thiết lập các chính sách bảo đảm ATTT, an ninh mạng; Phải triển khai giải pháp truy cập, được cài đặt tường lửa và hệ thống phòng chống phần mềm độc hại; Hệ điều hành, ứng dụng phải được cập nhật thường xuyên.

Đối với phần mềm và dịch vụ hoạt động trên mạng máy tính quân sự: Phải được BTL 86 kiểm tra ATTT, an ninh mạng và đồng ý đưa vào sử dụng; Cơ quan, đơn vị chủ quản phải xây dựng quy định về quản lý, vận hành, khai thác và bảo đảm ATTT, an ninh mạng; Phải kích hoạt tính năng tường lửa, bắt buộc phải cài đặt hệ thống phòng chống phần mềm độc hại và các phần mềm đảm bảo ATTT do BTL 86 cung cấp.

Quản lý, cung cấp và sử dụng mạng Internet

Cơ quan, đơn vị chỉ được kết nối mạng Internet bằng cáp mạng, sử dụng nhà cung cấp dịch vụ Internet của Viettel và kiểm soát số lượng các kết nối. Cơ quan, đơn vị được phép sử dụng trong phạm vi đơn vị phải đáp ứng các yêu cầu về ATTT, an ninh mạng và phải được BTL 86 kiểm tra, đánh giá ATTT, an ninh mạng và đồng ý đưa vào sử dụng. Cơ quan, đơn vị khi sử dụng mạng Internet phải triển khai các giải pháp bảo đảm ATTT, an ninh mạng. Tín hiệu giám sát phải được gửi về trung tâm giám sát ATTT, an ninh mạng tập trung của BTL 86.

Bảo đảm cách ly mạng Internet với mạng máy tính quân sự

Trao đổi thông tin, dữ liệu giữa máy tính quân sự và máy tính Internet được thực hiện thông qua đĩa CD, DVD (dùng một lần) hoặc qua USB được cài đặt giải pháp an toàn. Truyền dữ liệu hạn chế một chiều từ máy tính thuộc mạng máy tính Internet vào máy tính thuộc mạng máy tính quân sự  hoặc ngược lại phải được thực hiện qua thiết bị truyền dẫn dữ liệu một chiều an toàn và có giải pháp giám sát, bảo đảm ATTT, an ninh mạng được BTL 86 thẩm định, quyết định.

Xây dựng kế hoạch và lộ trình chuyển đổi số phù hợp, theo các bước: Xác định các vấn đề cần giải quyết; xác định tầm nhìn, chiến lược chuyển đổi số gắn liền chiến lược phát triển cơ quan, đơn vị; xây dựng kế hoạch chuyển đổi số; tổ chức triển khai; đánh giá kết quả, nhân rộng.

GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CĐS TRONG QUÂN ĐỘI

Để đẩy mạnh thực hiện CĐS trong Quân đội cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, từ việc xây dựng định hướng, chiến lược, hành lang pháp lý tới việc xây dựng tiềm lực con người, hạ tầng, ứng dụng các công nghệ mới, thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 trong công tác quản lý, chỉ huy - điều hành và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu.

Một là, hoàn thiện môi trường pháp lý về CĐS.

Để thúc đẩy CĐS trong Quân đội, cần tiếp tục hoàn thiện về thể chế, quy định, cần có các văn bản để pháp lý hóa thông tin đưa lên môi trường số, các quy chế quản lý vận hành hệ thống, đưa các sản phẩm của CĐS vào trang bị nhóm 1 để bảo đảm kỹ thuật. Cần có các cơ chế liên thông dữ liệu với các cơ quan, đơn vị để đảm bảo tính liên kết. Tiến hành chuẩn hóa danh mục, ký mã hiệu, xây dựng mã định danh điện tử, chuẩn hóa hệ thống mẫu biểu báo cáo.

Hai là, phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và đổi mới tư duy về CĐS.

Tăng cường vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy đơn vị; bám sát sự chỉ đạo của cơ quan nghiệp vụ cấp trên; phát huy tốt vai trò tham mưu của cơ quan chuyên môn các cấp. Thông qua các hình thức: đào tạo ngắn hạn, tổ chức hội thảo, tọa đàm khoa học về CĐS; viết bài, dựng phim để phổ biến, tuyên truyền về CĐS; quán triệt phổ biến chủ trương, định hướng chiến lược và kế hoạch triển khai thông qua các Nghị quyết chuyên đề, hội nghị về CĐS, từng bước nâng cao nhận thức và đổi mới tư duy của đội ngũ cán bộ.

Ba là, xây dựng hạ tầng CNTT, tiềm lực, huấn luyện bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đáp ứng nhu cầu CĐS.

Đẩy mạnh phát triển hạ tầng CNTT, đặc biệt là liên thông mạng truyền số liệu quân sự từ cấp trên đến cấp dưới gắn với thực hiện tốt các giải pháp bảo đảm ATTT, an ninh mạng để sẵn sàng triển khai các ứng dụng phân cấp, đảm bảo tính liên thông và thống nhất dữ liệu. Đẩy mạnh xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu dùng chung, khai thác các cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu các cơ quan Bộ Quốc phòng, các cơ sở dữ liệu liên ngành. Xây dựng lực lượng chuyên trách CNTT có trình độ chuyên sâu về CĐS theo lộ trình. Đồng thời phải xây dựng kế hoạch và triển khai đào tạo bồi dưỡng kỹ năng số cho đội ngũ cán bộ.

Bốn là, xây dựng kế hoạch và lộ trình CĐS phù hợp.

CĐS cần có kế hoạch tổng thể và chi tiết. Lộ trình được xây dựng phù hợp với đặc thù và hoàn cảnh của từng đơn vị trong từng giai đoạn. Các bước thực hiện gồm: Xác định các vấn đề cần giải quyết; xác định tầm nhìn, chiến lược CĐS gắn liền chiến lược phát triển cơ quan, đơn vị; xây dựng kế hoạch CĐS (đánh giá hiện trạng, xác định mục tiêu, nội dung, dự kiến kết quả, nguồn lực, lộ trình triển khai); tổ chức triển khai; đánh giá kết quả, nhân rộng. CĐS có thể triển khai từng bước, gắn với từng giai đoạn, tuy nhiên cần có tầm nhìn và xây dựng kiến trúc tổng thể, toàn diện, sau đó hoàn thiện theo lộ trình các thành phần trong kiến trúc đó để đảm bảo tính hệ thống. Nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới trong công tác quản lý, điều khiển tự động hóa và chỉ huy - điều hành.

Có thể thấy, CĐS là xu hướng phát triển tất yếu của các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. CĐS tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Do đó, để đẩy mạnh CĐS trong Quân đội, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp ở các cấp; góp phần chuyển đổi Quân đội một cách tổng thể và toàn diện trên môi trường số, xây dựng Quân đội hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

TS. NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Viện Công nghệ thông tin và Truyền thông, Học viện Kỹ thuật Quân sự

(Nguồn: antoanthongtin.vn)

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại