Những kết quả quan trọng trong công tác bảo đảm an toàn sản xuất

4/22/2024 3:04:43 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 81

CNQP&KT - Những năm qua, công tác bảo đảm an toàn trong sản xuất ở các nhà máy quốc phòng có sự chuyển biến tích cực, đạt được kết quả quan trọng, góp phần ngăn ngừa, giảm thiểu sự cố cháy nổ, tai nạn lao động, bảo vệ sức khỏe, tính mạng cho người lao động và giữ gìn tài sản Nhà nước, Quân đội.

Nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) và tàu xuồng quân sự ở Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (CNQP) có tính chất đặc thù, đa dạng, phức tạp về công nghệ, loại hình sản xuất và các yếu tố đặc biệt nguy hiểm (cháy, nổ vật lý và hóa học; va đập, rơi đổ, sập; nhiệt độ cao, ngạt khí…), các yếu tố có hại (hóa chất độc; tiếng ồn, bụi; bức xạ, phóng xạ…) và yếu tố gây mất an toàn môi trường cao so với các ngành sản xuất khác. Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Thủ trưởng Tổng cục CNQP, sự nỗ lực cố gắng của cấp ủy, chỉ huy các đơn vị, công tác bảo đảm an toàn, phòng chống cháy nổ (PCCN) trong các nhà máy, xí nghiệp thuộc Tổng cục đã đạt được kết quả quan trọng, góp phần ngăn ngừa, giảm thiểu sự cố, cháy nổ, tai nạn lao động.

Cụ thể, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng ủy Tổng cục CNQP ra Nghị quyết chuyên đề về "Lãnh đạo công tác bảo đảm an toàn trong sản xuất" và quán triệt đến các cơ quan, đơn vị trực thuộc tổ chức triển khai đồng bộ các giải pháp về bảo đảm an toàn, gồm: công tác Đảng, công tác chính trị; công tác chỉ huy, quản lý, giám sát; công tác đầu tư nguồn lực; công tác khoa học, kỹ thuật, công nghệ…; nâng cao khả năng bảo đảm an toàn của các dây chuyền sản xuất; bảo đảm quyền của người lao động được làm việc trong điều kiện an toàn, vệ sinh lao động (AT, VSLĐ); ưu tiên các biện pháp phòng ngừa, loại trừ, kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại; ngăn ngừa nguyên nhân mất an toàn do lỗi chủ quan. Đặc biệt, yêu cầu các đơn vị không bảo đảm an toàn thì không sản xuất; đưa công tác bảo đảm an toàn là tiêu chí bình xét khen thưởng hằng năm.


Nhà máy Z121 tổ chức diễn tập phòng cháy, chữa cháy định kỳ.  Ảnh: BẢO LÂM

Các đơn vị đã có nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công nhân, viên chức quốc phòng, người lao động về công tác bảo đảm an toàn, như: bản tin phát thanh nội bộ; băng rôn, pano, áp phích... được treo ở khu vực làm việc có yếu tố nguy hiểm, trên các trục giao thông, khu vực tập trung đông người. Trong hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý, các cơ quan, đơn vị thường xuyên cập nhật và quán triệt các quy định pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về AT, VSLĐ, PCCN. Tổng cục đã ban hành các quy định về: an toàn sản xuất; quản lý thiết bị sản xuất; tường chắn nổ, ụ chắn nổ; quản lý vệ sinh công nghiệp và phương tiện bảo vệ cá nhân cho người lao động; quy định an toàn trong thử nghiệm vũ khí; quy trình kiểm tra, kiểm soát công tác quản lý bảo đảm kỹ thuật, công nghệ, an toàn trong sản xuất. Hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác AT, VSLĐ, PCCN và công tác bảo đảm an toàn cho các cơ quan, đơn vị, kịp thời khắc phục những hạn chế về quy định an toàn đối với các khu vực đặc thù của ngành CNQP, góp phần hoàn chỉnh quy định pháp luật về bảo đảm an toàn trong sản xuất CNQP. Cùng với đó, Tổng cục chỉ đạo các cơ quan, đơn vị rà soát lại tổ chức, biên chế, lực lượng, cán bộ làm công tác an toàn. Đến nay, 100% các đầu mối đơn vị có Hội đồng AT, VSLĐ và mạng lưới an toàn, vệ sinh viên; 100% đơn vị có nguy cơ mất an toàn, cháy nổ có phòng (ban) an toàn theo quy định.

Đảng ủy Tổng cục CNQP ra Nghị quyết chuyên đề về "Lãnh đạo công tác bảo đảm an toàn trong sản xuất". Đặc biệt yêu cầu các đơn vị không bảo đảm an toàn thì không sản xuất; đưa công tác bảo đảm an toàn là tiêu chí bình xét các hình thức khen thưởng hằng năm.

Bên cạnh đó, Tổng cục CNQP chỉ đạo các đơn vị tổ chức tổng rà soát phát hiện các yếu tố không bảo đảm an toàn về mặt bằng quy hoạch; mặt bằng công nghệ sản xuất; tài liệu thiết kế, tài liệu công nghệ; bảo đảm an toàn các máy, thiết bị, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ; trang - thiết bị PCCN; công trình, nhà xưởng; công tác chuẩn bị sản xuất; hạ tầng kỹ thuật; bảo vệ môi trường; huấn luyện an toàn. Các đơn vị đã củng cố gần 5.000m3 ụ chống nổ lây; mua sắm bổ sung trang bị, phương tiện, dụng cụ PCCC; kiểm định 6.293 lượt thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ. Đến nay, các nhà máy sản xuất quốc phòng có hơn 200 công đoạn sản xuất nguy hiểm, độc hại đã được tự động hóa hoặc thao tác gián tiếp; hàng trăm vị trí làm việc có yếu tố nguy hiểm về cháy, nổ, độc hại được lắp hệ thống camera giám sát, áp dụng giải pháp 5S-Kaizen, tiêu chuẩn ISO; hàng nghìn sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được áp dụng xử lý các nguy cơ gây mất an toàn.

Công tác thẩm định về kỹ thuật, an toàn, công nghệ sản xuất trong các dự án (báo cáo kinh tế - kỹ thuật) đầu tư xây dựng mới, nâng cấp các dây chuyền sản xuất được nâng cao. Các dự án, công trình phải bảo đảm an toàn mặt bằng quy hoạch, mặt bằng công nghệ sản xuất, thử nghiệm, kho cất chứa; hệ thống chống sét; hệ thống ụ chống nổ lây; ụ chắn nổ, tường chắn nổ; trang bị, phương tiện, dụng cụ PCCN mới được triển khai xây dựng. Đồng thời, các cơ quan, đơn vị thực hiện nghiêm chế độ kiểm tra công tác AT, VSLĐ, PCCN.


Nhà máy Z111 đưa robot vào sản xuất. Ảnh: BẢO MINH

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo đảm an toàn trong sản xuất vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, như: một số đơn vị vẫn còn để xảy ra sự cố kỹ thuật, cháy nổ, tai nạn lao động; ý thức chấp hành các quy định, quy tắc về bảo đảm an toàn trong sản xuất của người lao động có trường hợp chưa nghiêm túc; năng lực của cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật an toàn ở một số đơn vị còn hạn chế nên chất lượng rà soát, phát hiện các tồn tại về bảo đảm an toàn chưa cao. Bên cạnh đó, một số dây chuyền sản xuất đã lạc hậu, xuống cấp; kinh phí bảo đảm cho sửa chữa, cải tạo, nâng cấp hạn chế; việc bảo đảm vành đai an toàn theo quy định tại Nghị định số 148/2006/NĐ-CP của Chính phủ đòi hỏi chi phí lớn nên chưa thực hiện được; một số công đoạn sản xuất khó thực hiện gián tiếp do tính đặc thù cao…

Để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục tồn tại, hạn chế, tăng cường công tác bảo đảm an toàn, thời gian tới, các cơ quan, đơn vị trong Tổng cục CNQP cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, thường xuyên quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục CNQP về công tác bảo đảm an toàn. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, gắn với trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị đối với công tác bảo đảm an toàn trong sản xuất.

Chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, lực lượng chức năng nơi đóng quân để kịp thời giải quyết khi có vụ việc mất an toàn xảy ra. Các đơn vị trong Tổng cục CNQP phải tổ chức thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã được xác định trong Nghị quyết số 195-NQ/ĐU ngày 8/7/2016, Kết luận số 366-KL/ĐU ngày 30/12/2021 của Đảng ủy Tổng cục CNQP và các nội dung, mốc thời gian đã xác định trong Kế hoạch số 1648/KH-CNQP ngày 4/3/2022 đã được Tổng cục phê duyệt.

 

Tổng cục đã kiểm định 6.293 lượt thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động; 200 công đoạn sản xuất nguy hiểm, độc hại đã được tự động hóa hoặc thao tác gián tiếp; hàng trăm vị trí làm việc có yếu tố nguy hiểm về cháy, nổ, độc hại được lắp hệ thống camera giám sát bảo đảm an toàn.

 (Nguồn: Cục Quản lý công nghệ)

Hai là, thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức, khắc phục triệt để tình trạng chủ quan, lơ là, thiếu ý thức chấp hành các quy định, quy tắc về bảo đảm an toàn. Triển khai chặt chẽ công tác rà soát, cập nhật, bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý, các quy định, quy tắc về bảo đảm an toàn trong sản xuất và chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện. Trong đó, tập trung rà soát toàn bộ quy định an toàn của từng nguyên công, công đoạn sản xuất; rà soát hoàn chỉnh toàn bộ kế hoạch PCCN - cứu sập, phương án đảm bảo kỹ thuật AT, PCCN của từng dây chuyền sản xuất, từng con tàu đóng mới, sửa chữa; các nội dung về kiểm tra, chạy thử thiết bị, vệ sinh, sửa chữa thiết bị... phải có quy trình thao tác, yêu cầu an toàn và biện pháp xử lý tình huống bất trắc xảy ra.

Ba là, tiếp tục tham mưu, đề xuất với cấp trên kiện toàn tổ chức, cơ chế quản lý; tuyển chọn, bố trí đội ngũ, lực lượng làm công tác an toàn tại cơ quan, đơn vị; thường xuyên đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng nâng cao năng lực, nghiệp vụ chuyên môn của lực lượng làm công tác an toàn và kiến thức, kỹ năng, ý thức chấp hành quy trình công nghệ, trách nhiệm về bảo đảm an toàn của người lao động. Theo dõi, nắm bắt tư tưởng chính trị, tâm lý, sức khỏe, tinh thần và thái độ làm việc để phòng tránh các rủi ro, tai nạn do ý thức chủ quan, lơ là, thiếu trách nhiệm của người lao động gây ra.

Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy tắc, quy định bảo đảm an toàn. Kết hợp kiểm tra, giám sát với việc huy động trí tuệ tập thể để xây dựng thành phong trào thi đua bảo đảm an toàn sâu rộng. Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong công tác bảo đảm an toàn. Duy trì việc phát phiếu điều tra để kiểm tra trình độ, hiểu biết của người lao động về các nguy cơ có thể gây mất an toàn trong sản xuất; khuyến khích người lao động tham gia đề xuất các giải pháp nâng cao khả năng bảo đảm an toàn trong đơn vị.

Năm là, tăng cường đầu tư cơ giới hóa, tự động hóa, giảm thao tác trực tiếp, thủ công; ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, nhất là thành tựu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4; áp dụng giải pháp 5S-Kaizen;  lắp đặt hệ thống camera để giám sát và cảnh báo nguy cơ mất an toàn, cháy nổ; củng cố, nâng cấp nhà xưởng, thiết bị sản xuất và trang bị, phương tiện PCCN. Tiếp tục báo cáo Bộ Quốc phòng đầu tư di chuyển số nhà xưởng sản xuất không bảo đảm vành đai an toàn theo Nghị định 148/2006/NĐ-CP của Chính phủ; xây dựng tường chắn, ụ chắn để khoanh vùng, cô lập số nhà xưởng không thể di dời được, không để sự cố cháy nổ lan rộng, ảnh hưởng đến địa bàn dân cư xung quanh.

Sáu là, tập trung nghiên cứu, giải quyết các vướng mắc về pháp lý, các quy định, quy tắc, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật bảo đảm an toàn và bảo vệ môi trường trong sản xuất. Thực hiện đúng quy định về quản lý, bảo đảm kỹ thuật, an toàn khi sử dụng thiết bị sản xuất. 100% thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ phải được kiểm tra, kiểm định kỹ thuật an toàn mới được đưa vào sản xuất; thường xuyên rà soát các dây chuyền, thiết bị để bổ sung vào diện yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ đặc thù quân sự và các trang bị, phương tiện PCCN, bảo hộ lao động đúng quy định ngành nghề.

Nguy cơ mất an toàn có thể xảy ra ở bất kỳ nơi đâu, bất kỳ lúc nào nên yêu cầu các cơ quan, đơn vị và người lao động trong toàn Tổng cục CNQP cần tích cực, chủ động thực hiện tốt công tác bảo đảm an toàn, đảm bảo tính mạng, tài sản của cơ quan, đơn vị, xây dựng Tổng cục CNQP ổn định, phát triển.

Đại tá TRỊNH HỮU HÀ

Trưởng phòng Thiết bị - Kỹ thuật an toàn, Cục Quản lý công nghệ

Tổng cục Công nghiệp quốc phòng

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại