Lưỡng dụng hóa trong các tập đoàn công nghiệp quốc phòng

1/14/2020 10:00:31 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 16

CNQP&KT - Công nghệ lưỡng dụng (dual-use technology) được sử dụng đồng thời trong thiết kế, chế tạo sản phẩm quân sự cũng như dân sự. Lưỡng dụng hóa trong sản xuất quốc phòng luôn là hướng đi chiến lược của các tập đoàn công nghiệp quốc phòng (CNQP) lớn trên thế giới.

VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ LƯỠNG DỤNG

Các quốc gia trên thế giới đều có chiến lược ưu tiên ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ (KHCN) mới nhất vào sản xuất sản phẩm quân sự, sau đó mới từng bước sản xuất hàng dân sự. Để tránh thất thoát các loại hình công nghệ cao (đa phần là công nghệ quân sự), các cường quốc quân sự trên thế giới luôn có những quy định nghiêm ngặt về kiểm soát mua bán vũ khí cũng như chuyển giao công nghệ quân sự. Ví dụ, năm 1974, Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Jackson-Vanik với nội dung chủ yếu là cấm áp dụng quy chế tối huệ quốc trong buôn bán với các nền kinh tế phi thị trường, không cho phép những quốc gia này tiếp cận các chương trình hỗ trợ của Chính phủ Mỹ cũng như các loại hình công nghệ cao (đặc biệt các công nghệ có tính lưỡng dụng).

Công nghệ lưỡng dụng không chỉ giúp các cường quốc quân sự giữ ưu thế trong cuộc chạy đua vũ trang, mà còn là “con át chủ bài” củng cố khả năng cạnh tranh trên thị trường hàng hóa thương mại dân sự trên thế giới. Trình độ phát triển công nghệ quân sự càng cao thì khả năng “lưỡng dụng hóa” càng sâu rộng, đem lại giá trị gia tăng và sức cạnh tranh càng lớn hơn. Việc áp dụng có chiến lược và linh hoạt các loại hình công nghệ lưỡng dụng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn, công ty đa quốc gia giúp họ luôn giữ được vị trí tiên phong, duy trì mức doanh thu hàng đầu.

 

Tàu sân bay lớp Nimitz. Ảnh: Internet

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ LƯỠNG DỤNG TRONG MỘT SỐ TẬP ĐOÀN CNQP LỚN

Những doanh nghiệp CNQP đi đúng hướng và bắt kịp với xu hướng phát triển KHCN, phát huy được những thế mạnh về kỹ thuật, nắm bắt tốt thời cơ và nhu cầu trang bị của quân đội, thực hiện chiến lược kết hợp chặt chẽ quân sự và dân sự sẽ phát triển rất nhanh; ngược lại, những công ty không theo được hoặc chệch hướng KHCN, đều có thể bị tụt hậu, thậm chí là phá sản hoặc bị thôn tính. Các tập đoàn chế tạo vũ khí Mỹ luôn chiếm 60% tổng doanh thu của tốp 100 công ty CNQP lớn nhất thế giới.

Máy bay Boeing 787.    Ảnh: Internet

Các công ty, tập đoàn chế tạo vũ khí Mỹ có cơ cấu tổ chức đặc biệt, khiến cho mối quan hệ giữa hai lĩnh vực quân sự và dân sự luôn ở trong quá trình chuyển đổi và hội nhập. Điều này đã giúp ngành CNQP Mỹ thực sự trở thành lực lượng chính trong nghiên cứu và phát triển KHCN, đóng vai trò then chốt phát triển nền kinh tế quốc dân, phát huy được tác dụng to lớn trong sự phát triển nền kinh tế Mỹ. Ngay khi trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 - 1945), Mỹ đã không ngừng thúc đẩy công cuộc tư hữu hóa các cơ sở sản xuất CNQP, đến nay, ngành CNQP Mỹ đều do các doanh nghiệp tư nhân nắm giữ. Các doanh nghiệp tư nhân rất quan tâm đến lợi ích kinh tế, đã áp dụng tối đa những thành quả nghiên cứu và phát triển KHCN vào phục vụ mục đích quân sự, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước. Theo đó, trong chương trình Applo (đưa con người lên Mặt Trăng), Mỹ đã thu được hơn 3.000 bản quyền sáng chế phát minh. Sau khi kết thúc chương trình, phần lớn những kỹ thuật được ứng dụng vào lĩnh vực dân sự đã thu về khoản lợi nhuận lớn, điển hình như: kỹ thuật chế tạo giày thể thao đệm khí theo công nghệ “định hình nhựa chân không” dựa trên công nghệ sản xuất trang phục hàng không vũ trụ; công nghệ hình ảnh máy tính trong nghiên cứu đổ bộ Mặt Trăng được áp dụng rộng rãi vào xử lý hình ảnh cho máy chụp cắt lớp vi tính và máy cộng hưởng từ trong lĩnh vực y học…

Ngay từ thời kỳ đầu của Chiến tranh lạnh (1946-1989), Mỹ đã đề ra “kế hoạch chuyển đổi nền tảng CNQP” với mục tiêu chiến lược là xây dựng nền tảng CNQP dựa vào năng lực. Những lĩnh vực cần tập trung phát triển đều phải dựa vào hệ thống vũ khí công nghệ cao mới mà trọng điểm là kỹ thuật thông tin. Điều này đòi hỏi ngành CNQP Mỹ cần nâng cao khả năng tích hợp vũ khí và hệ thống tác chiến, vượt qua giới hạn phân chia các quân, binh chủng và các tổ hợp vũ khí như trước đây. Từ mô hình các nhà cung cấp vũ khí truyền thống chuyển sang mô hình nhà cung cấp và phục vụ hệ thống quân sự, phát triển kỹ thuật công nghệ cao lấy kỹ thuật thông tin làm nòng cốt như máy vi tính, tác chiến mạng, thông tin, radar... Mỹ đã duy trì rất nhiều doanh nghiệp ở mọi lĩnh vực, tạo lập một môi trường cạnh tranh tối đa. Các doanh nghiệp CNQP lớn của Mỹ gồm: Lockheed Martin, Boeing, Northrop Grumman, Raytheon, General Dynamics, Northrop, Phil Rothschild...

Hệ thống tên lửa phòng không Patriot.  Ảnh: Internet

Đầu tiên là Lockheed Martin, đảm nhận hai dự án quan trọng nhất trong kế hoạch phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 của Quân đội Mỹ là F-22 và F-35. Đồng thời, Lockheed Martin còn có các hạng mục công nghệ cao trong các lĩnh vực trên bộ, trên biển và hàng không vũ trụ, như tên lửa Atlas, hệ thống chống tên lửa THAAD, tên lửa không đối đất JASSM, bom có điều khiển Paveway, tàu chiến đấu ven bờ, ngư lôi MK-48, hệ thống chỉ huy chiến đấu Aegis. Trong số các sản phẩm của Tập đoàn, tỷ lệ các sản phẩm công nghiệp quân sự tương đối lớn, ngoài ra, tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao mang tính lưỡng dụng như thông tin điện tử, tích hợp hệ thống, thông tin, vệ tinh, điều khiển dẫn đường, an ninh thông tin... Hiện, Tập đoàn có trên 50% sản phẩm tập trung vào các hệ thống tích hợp và sản phẩm công nghệ thông tin (IT).

Boeing là tập đoàn hoạt động trên nhiều lĩnh vực (đặc biệt là lĩnh vực hàng không vũ trụ), với các sản phẩm quân sự tiêu biểu gồm: máy bay tiếp dầu trên không KC-10 và KC-135, trạm laser trên không YAL-1, máy bay F-15, F/A-18, trực thăng vũ trang AH-64, máy bay vận tải CH-47, máy bay cánh quạt lật V-22, tên lửa chống tàu Harpoon, tên lửa liên lục địa LGM-30 Minuteman-III, rocket Delta, tên lửa đánh chặn tên lửa đạn đạo GBI... Bên cạnh đó, Boeing còn là tập đoàn hàng đầu về hàng không dân dụng với các dòng máy bay chở khách nổi tiếng như: Boeing 707, 727, 737, 747, 757, 767, 777, 787. Boeing hiện nắm giữ khoảng 30% thị trường máy bay tầm trung, nhưng chiếm tới 60% thị trường máy bay tầm xa... Về nhịp độ sản xuất, từ năm 2020, Boeing sẽ cho ra đời hằng năm 1.500 máy bay dân dụng thay vì 1.200 chiếc như hiện tại. Lợi nhuận từ sản xuất máy bay dân dụng luôn áp đảo so với máy bay quân sự trong nhiều năm. Chỉ tính riêng năm 2018, lợi nhuận của Boeing là 101 tỷ USD, trong đó 61 tỷ USD đến từ mảng sản xuất máy bay dân dụng và máy bay thương mại.

Xe tăng M1 Abrams.  Ảnh: Internet

Northrop Grumman là nhà cung cấp các hệ thống trên biển với các sản phẩm như: tàu sân bay lớp Nimitz, tàu sân bay thế hệ mới lớp Gerald R. Ford, tàu khu trục lớp Zumwalt, tàu ngầm hạt nhân lớp Virginia, tàu tấn công đổ bộ Hornet… Northrop Grumman được hình thành từ việc hợp nhất hai công ty hàng không, nên có năng lực lớn trong sản xuất các sản phẩm hàng không vũ trụ, như: máy bay ném bom tàng hình B-2, máy bay cảnh báo sớm E-2 và E-8, máy bay chiến đấu không người lái X-47, máy bay không người lái RQ-4 Global Hawk, trực thăng không người lái Fire Scout... Ngoài ra, Northrop Grumman còn là hãng dẫn đầu thế giới về công nghệ sản xuất các hệ thống radar phòng thủ tên lửa, hệ thống chống tên lửa, ứng phó sự cố công nghệ cao và là nhà sản xuất hàng đầu về tàu hải quân (các hệ thống thủy âm, động cơ tàu)...

Tập đoàn Raytheon chuyên về các hệ thống công nghệ cao như tên lửa và radar. Từ thập niên 80 đến nay, Raytheon đóng vai trò then chốt trong lĩnh vực công nghệ phòng thủ tên lửa, với các sản phẩm tiêu biểu: hệ thống tên lửa phòng không Patriot, tên lửa chống tăng Javelin, tên lửa AGM-88 HARM, tên lửa hành trình Tomahawk, tên lửa chống tăng TOW, các hệ thống tên lửa phòng không Sparrow và Sidewinder... Ngoài ra, Raytheon còn cung cấp cho Quân đội Mỹ các dịch vụ trong các cuộc thám hiểm vũ trụ, các giải pháp an ninh mạng...

Ngoài máy bay tiêm kích đa năng F-16, General Dynamics còn nổi tiếng với tên lửa đạn đạo liên lục địa MX-774, tàu ngầm hạt nhân lớp Ohio trang bị tên lửa Trident, xe tăng M1 Abrams... Hiện, Công ty General Dynamics là nhà cung cấp hệ thống xe quân sự lớn nhất thế giới. Công ty Convair (công ty con của General Dynamics) từng chế tạo tên lửa xuyên lục địa hiệu Atlas đầu tiên của Mỹ. Không chỉ sản xuất các mặt hàng quân sự chuyên dụng, General Dynamics còn tham gia vào nhiều chương trình dân sự của Cơ quan Không gian Mỹ (NASA), sản xuất các loại máy bay dân dụng…

Tóm lại, việc thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ quân sự sang dân sự và ngược lại, quân - dân sự kết hợp, quân dụng “nằm trong” dân dụng là những chính sách cơ bản để thúc đẩy phát triển CNQP và nâng cao sức mạnh tổng hợp của Mỹ.

TS. MẠNH HÙNG

(Tổng hợp theo tài liệu nước ngoài)

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại