Bảo đảm vũ khí trong Chiến dịch Điện Biên Phủ

4/15/2024 4:31:50 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 70

CNQP&KT - Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, với tinh thần "Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", ngành Quân giới đã chủ động khắc phục khó khăn, thiếu thốn, nghiên cứu sản xuất, sửa chữa được nhiều loại vũ khí, khí tài trang bị cho quân và dân ta đánh địch, góp phần quan trọng vào chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".

Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, Đảng ủy mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Với tầm quan trọng đặc biệt của chiến dịch, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã quyết định tập trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với tổng quân số hơn 40.000 người. Cả nước tập trung sức mạnh cho Chiến dịch Điện Biên Phủ với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng".

Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch. Cũng với tinh thần "quyết thắng", 261.453 dân công, thanh niên xung phong hừng hực khí thế tham gia phục vụ chiến dịch. Vũ khí bảo đảm cho Chiến dịch Điện Biên Phủ rất lớn, nhất là khi ta chuyển từ phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc" thì nhu cầu vũ khí, trang bị kỹ thuật càng tăng cao. Để thực hiện nhiệm vụ được giao, ngành Quân giới đã khẩn trương tổ chức lực lượng nghiên cứu sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang - thiết bị phục vụ chiến dịch.


Bộ đội ta kéo pháo vào trận địa trong Chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954). Ảnh: TL

Ở hậu phương, thực hiện chỉ đạo của Bộ Quốc phòng về chuyển hướng sản xuất vũ khí, Quân giới phía Bắc từng bước chấn chỉnh tổ chức. Đợt 1 điều chỉnh 48 xưởng sản xuất xuống còn 25 xưởng và 3 công trường, với khoảng 10.000 cán bộ, công nhân. Đợt 2 điều chỉnh còn 13 xưởng sản xuất, với hơn 3.000, cán bộ, công nhân. Đến tháng 4/1954, Quân giới phía Bắc còn 6 xưởng sản xuất với gần 1.000 cán bộ, công nhân.

Ở tiền phương, Ban Quân khí tiền phương và các tổ, đội quân khí tại các kho, phân kho ở trung tuyến, hỏa tuyến; các đội sửa chữa, thu hồi vũ khí chiến lợi phẩm được thành lập. Nhờ đó, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ngành Quân giới đã xây dựng được hệ thống tổ chức từ hậu phương đến mặt trận bảo đảm hơn 1.458 tấn vũ khí, đạn dược và trang bị kỹ thuật cho bộ đội.

Cuối tháng 11/1953, trước khi mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, Quân giới Liên khu 3 và Liên khu 4 đã sửa chữa xong 300.000 quả lựu đạn, bảo đảm chất lượng, trang bị cho lực lượng vũ trang đánh địch.

Về sản xuất nguyên liệu và phụ tùng thay thế, ngành Quân giới kế thừa kinh nghiệm sản xuất gang của Sở Kỹ nghệ Trung Bộ (do kỹ sư Võ Quý Huân chỉ đạo) và Xưởng Phan Bội Châu (ở Thái Nguyên). Cục Quân giới đã điều máy móc, thiết bị, nhân lực từ các xưởng Quân giới ở Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An... về khu vực Bến Sung, Bến Mực (Thanh Hóa) xây dựng lò cao Như Xuân sản xuất gang. Năm 1952, lò cao Như Xuân sản xuất hơn 200 tấn gang, năm 1953 được 100 tấn và 7 tháng đầu năm 1954 được 100 tấn. Ngoài ra, Quân giới còn tổ chức một số lò luyện thép ở Bản Thi (Tuyên Quang); sản xuất các loại a-xít để điều chế fuminát thủy ngân; khai thác diêm tiêu sản xuất thuốc nổ đen, a-xít nitơríc, êbônít… bảo đảm vật tư phục vụ chế tạo và sửa chữa vũ khí.

Trong chiến dịch, các xưởng Quân giới tiền phương còn chủ động nghiên cứu, chế tạo phụ tùng thay thế phục vụ sửa chữa vũ khí, khí tài, Đặc biệt, các loại pháo cao xạ, do thiếu trận địa dự bị nên trong suốt chiến dịch ít cơ động, bị địch đánh phá ác liệt, gây hỏng hóc lớn; hay súng phòng không 12,7mm do sử dụng liên tục, ngoài kim hỏa bị hỏng, còn hay bị gãy phiến khóa nòng mà ta không có nguồn dự trữ thay thế. Để kịp thời khắc phục, các cán bộ kỹ thuật Quân giới đã nghiên cứu chế tạo được trục máy tống đạn, bướm tống đạn, cán ngoắc pháo cao xạ, kim hỏa… kịp thời sửa chữa, thay thế các bộ phận của súng, pháo bị hỏng phục vụ bộ đội chiến đấu. Ngoài ra, cán bộ, công nhân Quân giới còn tích cực bám sát, giúp các đơn vị phân loại súng, đạn chiến lợi phẩm thu được của địch để cấp phát bổ sung cho các đơn vị ngoài mặt trận. Nhờ đó, bộ đội ta đã phát hiện và vô hiệu hóa số đạn pháo 105mm mà địch lắp loại ngòi nổ tức thì. Số đạn pháo này nếu không kịp thời xử lý mà đưa vào sử dụng, đạn sẽ nổ ngay trong nòng, phá hủy pháo và gây thương vong cho pháo thủ.


Các loại vũ khí do Quân giới chế tạo trong kháng chiến chống Pháp, trưng bày tại Triển lãm nhân kỷ niệm 10 năm thành lập nước (năm 1955). Ảnh: TL

Trong công tác sửa chữa vũ khí, tháng 10/1953, Tổng cục Cung cấp giao cho Sở Quân giới Liên khu 3 và Liên khu 4 sửa chữa 300.000 quả lựu đạn trong vòng 2 tháng. Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, Quân giới Liên khu 3 và Liên khu 4 đã nhanh chóng thành lập công trường trên bờ sông Mực (Thanh Hóa), tập trung sửa chữa lựu đạn. Từng công đoạn sửa chữa, như: tháo lắp, nhồi thuốc nổ, thay kim hỏa… được triển khai hết sức khẩn trương với tinh thần "ngày không giờ", "tuần không thứ". Nhờ đó, cuối tháng 11/1953, trước khi mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, Quân giới Liên khu 3 và Liên khu 4 đã sửa chữa xong 300.000 quả lựu đạn, bảo đảm chất lượng, trang bị cho lực lượng vũ trang đánh địch.

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ngành Quân giới đã nghiên cứu chế tạo được trục máy tống đạn, bướm tống đạn, cán ngoắc pháo cao xạ, kim hỏa… kịp thời đưa vào sửa chữa, thay thế các bộ phận của súng, pháo bị hỏng, phục vụ bộ đội chiến đấu.

Có thể nói, việc nghiên cứu sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị trong Chiến dịch Điện Biên Phủ tuy không phải là mới đối với ngành Quân giới, nhưng khối lượng và mức độ hiện đại của các loại vũ khí, khí tài sử dụng trong chiến dịch của bộ đội cao hơn; nhiều trận đánh lớn diễn ra liên tiếp trong thời gian ngắn, số lượng vũ khí hỏng hóc nhiều hơn. Công tác sửa chữa súng, pháo trong chiến dịch đòi hỏi tính chủ động, linh hoạt cao của các xưởng Quân giới tiền phương. Bên cạnh đó, việc sản xuất phụ tùng thay thế cũng không thể dự kiến đầy đủ từ đầu, mà khi có tình huống đột xuất mới tập trung lực lượng nghiên cứu, sản xuất. Song cán bộ, công nhân, chiến sĩ ngành Quân giới đã nỗ lực vượt bậc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào Chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Đồng thời, để lại nhiều bài học quý cần được tiếp tục nghiên cứu, kế thừa, phát triển về công tác bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật phục vụ bộ đội chiến đấu và chiến thắng.

Thượng tá, TS. LÊ QUÝ THI*

TS. NGUYỄN HẢI YẾN**

 

* Viện Lịch sử quân sự, Bộ Tổng tham mưu

** Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, Viện Vũ khí: Lịch sử Viện Vũ khí (1947-2017), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2017.

2. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật, Lịch sử ngành Kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 2 (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.

3. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng & Kinh tế, Lịch sử Quân giới Việt Nam (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại