Công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự góp phần hiện đại hóa Quân đội

12/12/2023 9:27:35 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 14

CNQP&KT - Những năm qua, công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự được tổ chức triển khai tương đối đồng bộ, toàn diện và có bước phát triển mới, giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, góp phần bảo đảm và từng bước hiện đại hóa vũ khí, trang bị cho Quân đội.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: "Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế". Theo đó, khoa học và công nghệ (KHCN) là nội dung cần được ưu tiên đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp.

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, sự phối hợp giúp đỡ hiệu quả của các bộ, ban, ngành Nhà nước, công tác khoa học quân sự đã phát triển đúng hướng, toàn diện trên các lĩnh vực, đạt kết quả ngày càng vững chắc, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Trong đó, công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự được tổ chức triển khai tương đối đồng bộ, toàn diện và có bước phát triển mới, giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, góp phần bảo đảm và từng bước hiện đại hóa vũ khí, trang bị (VKTB) cho Quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, đào tạo, huấn luyện, diễn tập; đồng thời, nâng cao năng lực công nghiệp quốc phòng (CNQP), chủ động khi có tình huống chiến tranh xảy ra. Tỷ lệ ứng dụng kết quả nghiên cứu KHCN trong thực tiễn ngày càng tăng, nhiều sản phẩm được triển khai sản xuất loạt "0", sản xuất loạt, đưa vào trang bị trong Quân đội.


Cán bộ, nghiên cứu viên Viện Công nghệ (Tổng cục Công nghiệp quốc phòng) trao đổi phương pháp nghiên cứu vũ khí, trang bị mới.               Ảnh: TUẤN MINH

Nổi bật là, thông qua triển khai các chương trình, đề án KHCN lớn hướng đến các sản phẩm mục tiêu đồng bộ, quy mô lớn, phức tạp, đã làm chủ thiết kế, chế tạo nhiều tổ hợp VKTB công nghệ cao. Trình độ nghiên cứu cơ bản, công nghệ nền, công nghệ phụ trợ đã có bước phát triển mới, nhất là trong lĩnh vực vật liệu chế tạo vũ khí; thuốc phóng, thuốc nổ; nhiên liệu tên lửa, công nghệ điện tử; công nghệ thông tin; công nghệ sinh học... Ngành CNQP có đủ năng lực để tự chủ nghiên cứu, sản xuất hầu hết các loại VKTB thiết yếu cho lục quân, thông tin liên lạc; chế tạo một số hệ thống tích hợp, cụm khối cơ khí, điện tử, vật tư, linh kiện cho bảo đảm kỹ thuật các loại VKTB trong biên chế của các quân, binh chủng, ngành; các loại vũ khí, khí tài mới. Hoạt động nghiên cứu khoa học đã giải mã được nhiều công nghệ nền, công nghệ lõi; làm chủ công nghệ chế tạo các loại súng trang bị đến cấp sư đoàn, các loại thép hợp kim chất lượng cao, các mác thuốc phóng, thuốc nổ thế hệ mới, dịch ngược được các phần mềm điều khiển vũ khí; nghiên cứu chế tạo một số loại vật tư tiêu hao bảo đảm cho tàu ngầm, máy bay... 

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự có mặt chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn, chưa tạo được nhiều sản phẩm đưa vào trang bị; cơ sở hạ tầng, trình độ của một số tổ chức KHCN còn hạn chế; còn thiếu chuyên gia đầu ngành, nhất là trong lĩnh vực thiết kế, chế tạo VKTB; chưa khắc phục được tình trạng khép kín, thiếu liên kết trong thực hiện các nhiệm vụ KHCN...

Ngành Công nghiệp quốc phòng có đủ năng lực để tự chủ nghiên cứu, sản xuất hầu hết các loại VKTB thiết yếu cho lục quân, thông tin liên lạc; một số hệ thống tích hợp, cụm khối cơ khí, điện tử, vật tư, linh kiện cho bảo đảm kỹ thuật VKTB trong biên chế của các quân, binh chủng; các loại vũ khí, khí tài mới…

Trước những bước tiến mạnh mẽ của KHCN, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển của không gian mạng đang mở ra thời đại mới, trong đó các quốc gia đang phát triển có thể tận dụng thời cơ "đi tắt, đón đầu" để vươn lên hùng mạnh. Bên cạnh đó, từ thực tiễn các cuộc xung đột quân sự đang diễn ra cho thấy những bài học mới về nghệ thuật tác chiến, sử dụng công nghệ quân sự trong chiến tranh hiện đại, phương thức tác chiến điện tử, chiến tranh đô thị, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật... đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới đối với công tác khoa học quân sự nói chung, công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự nói riêng. Do đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp, nhất là cán bộ chủ trì các cơ quan, đơn vị nghiên cứu KHCN, các doanh nghiệp CNQP cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nội dung trọng tâm sau:

Một là, quán triệt sâu sắc các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương về xây dựng Quân đội, phát triển KHCN và phát triển CNQP, nhất là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 26/1/2011 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 1652-NQ/QUTW ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo công tác khoa học quân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo… Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng, người lao động nâng cao nhận thức, trách nhiệm, xác định đúng vai trò, vị trí của công tác KHCN, phát triển CNQP đối với sự phát triển của đất nước, Quân đội và của đơn vị mình.


Kỹ sư Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) nghiên cứu sản phẩm quân sự tiên tiến.         Ảnh: CTV

Hai là, tổ chức triển khai đồng bộ, trọng tâm, trọng điểm các lĩnh vực KHCN phục vụ hiệu quả nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Tập trung nghiên cứu xu hướng phát triển VKTB của thế giới để kịp thời điều chỉnh các hướng nghiên cứu; các giải pháp chế áp, vô hiệu hóa, hạn chế uy lực đối với một số chủng loại VKTB công nghệ cao; phát triển các sản phẩm bảo mật, an toàn thông tin; ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số... Đẩy mạnh tiếp cận, khai thác triệt để những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phấn đấu từng bước làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nền trong cải tiến, hiện đại hóa và nghiên cứu thiết kế, chế tạo VKTB, nhất là vũ khí công nghệ cao. Cùng với đó, xây dựng và triển khai hiệu quả các chương trình KHCN cấp Bộ Quốc phòng hướng đến các sản phẩm mục tiêu, trọng điểm và đồng bộ trong từng giai đoạn; kết hợp chặt chẽ nghiên cứu với sản xuất, đẩy nhanh việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.

Ba là, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác khoa học quân sự. Hiện tại, các cơ quan chức năng của Nhà nước đang đẩy mạnh bổ sung, hoàn thiện, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về KHCN và đổi mới sáng tạo. Trên cơ sở đó, các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng, đặc biệt là Cục Khoa học quân sự tích cực bám nắm, chủ động rà soát, huy động nguồn lực để chỉnh sửa, bổ sung, xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật về khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự, đảm bảo đồng bộ, thống nhất, phù hợp với các quy định của pháp luật, tính đặc thù hoạt động quân sự, quốc phòng. Trong đó, cần nghiên cứu rút ngắn các khâu trung gian, đẩy nhanh quá trình đề xuất, triển khai, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn; tạo cơ chế đặc thù trong thực hiện nhiệm vụ KHCN đặc biệt, cấp bách; kiểm soát chất lượng, giá thành sản phẩm nghiên cứu, chế tạo; quản lý thiết kế sản phẩm quốc phòng và sở hữu trí tuệ...

"Phấn đấu từng bước làm chủ các công nghệ lõi, công nghệ nền trong cải tiến, hiện đại hóa và nghiên cứu thiết kế, chế tạo VKTB, nhất là vũ khí công nghệ cao; kết hợp chặt chẽ nghiên cứu với sản xuất, đẩy nhanh việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn".

         (Thiếu tướng, PGS. TS. Ngô Văn Giao)

Bốn là, tăng cường đầu tư nâng cao tiềm lực KHCN, phát triển các viện, trung tâm nghiên cứu, học viện thực sự trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh. Kiện toàn các tổ chức KHCN theo hướng tinh, gọn, mạnh, chuyên sâu, hiện đại và gắn kết chặt chẽ nghiên cứu với đào tạo, huấn luyện và sản xuất; đẩy mạnh việc thành lập các tổ chức KHCN tự chủ về tài chính; xây dựng lộ trình và chuyển đổi một số tổ chức KHCN thành doanh nghiệp KHCN để thúc đẩy việc tham gia thị trường KHCN và thuận lợi trong hợp tác, hội nhập quốc tế về KHCN. Bên cạnh đó, có giải pháp tạo nguồn vốn ban đầu và duy trì, sử dụng Quỹ phát triển KHCN để triển khai các nhiệm vụ KHCN kịp thời, hiệu quả, đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang - thiết bị phục vụ nghiên cứu, đo đạc, thử nghiệm theo hướng chuyên sâu, ưu tiên phục vụ nghiên cứu thiết kế, chế tạo các sản phẩm mục tiêu, giải mã và kiểm thử công nghệ mới. Tăng cường quản lý, chia sẻ thông tin, khai thác dùng chung các phòng thí nghiệm để có nguồn kinh phí tái đầu tư, duy trì hoạt động và nâng cao hiệu quả khai thác.

Năm là, tổ chức rà soát, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ KHCN, làm tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn đúng đối tượng và nhu cầu sử dụng; đảm bảo sự chuyển tiếp giữa các thế hệ và cơ cấu giữa cán bộ quản lý, nghiên cứu thiết kế, chế tạo và giảng dạy. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, nhóm nghiên cứu mạnh, trong đó một số đạt trình độ quốc gia, quốc tế. Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ KHCN, nhất là các chuyên ngành đặc thù phục vụ thiết kế, chế tạo VKTB và phát triển CNQP.

Sáu là, phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo trong Quân đội gắn kết chặt chẽ với hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển công nghệ/sản phẩm nền tảng để hình thành và phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc phòng, lưỡng dụng; đầu tư mạnh mẽ vào đổi mới, hấp thu và làm chủ công nghệ, đặc biệt là các công nghệ sản xuất, chế tạo thông minh; đổi mới mô hình quản lý, kinh doanh và sản phẩm, từ đó vừa dẫn dắt làm nòng cốt, vừa liên kết, tạo lập mạng lưới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong Quân đội. Đồng thời, triển khai hiệu quả kế hoạch chuyển đổi số trong các cơ quan, đơn vị; ưu tiên xây dựng các cơ sở dữ liệu dùng chung trong Bộ Quốc phòng (về VKTBKT; về hậu cần, kỹ thuật...); tập trung xây dựng một số nền tảng số thông minh, tiên tiến, đồng bộ phục vụ công tác quản lý, điều hành hoạt động KHCN...

Bảy là, mở rộng hợp tác trong nước và quốc tế về khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương, đặc biệt đối với Bộ Khoa học và Công nghệ, để khai thác tối đa các nguồn lực KHCN phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; tăng cường phối hợp về KHCN giữa các doanh nghiệp với cơ quan quản lý, giữa các đơn vị nghiên cứu để tránh trùng lặp, độc quyền và huy động hiệu quả nguồn lực cho các nhiệm vụ; tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để các viện nghiên cứu, nhà máy chủ động liên kết, hợp tác với các học viện, nhà trường đào tạo nguồn nhân lực KHCN. Mặt khác, tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và ứng dụng KHCN; mua bán, chuyển giao các sản phẩm KHCN phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng; tăng cường hợp tác đào tạo một số chuyên ngành hẹp về nghiên cứu thiết kế, chế tạo VKTB; thành lập tổ chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự chuyên ngành hoặc đa lĩnh vực...

Phát huy những kết quả đạt được, cùng với triển khai đồng bộ các giải pháp, sẽ là cơ sở, là tiền đề để công tác khoa học quân sự nói chung, công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự nói riêng có bước phát triển vững chắc, vươn lên làm chủ công nghệ hiện đại, tiên tiến và nghiên cứu, chế tạo nhiều sản phẩm VKTB mới, công nghệ cao, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

Thiếu tướng, PGS.TS. NGÔ VĂN GIAO

Cục trưởng Cục Khoa học quân sự/Bộ Quốc phòng

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại