Kết quả và giải pháp đối với công tác khoa học và công nghệ ở Tổng cục Công nghiệp quốc phòng

12/11/2023 3:02:55 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 15

CNQP&KT - Những năm qua, công tác khoa học và công nghệ (KHCN) của Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (CNQP) đã đạt nhiều thành tích đáng khích lệ, khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển CNQP Việt Nam tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: "Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại…". Quan điểm này thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng đối với vai trò của KHCN trong tiến trình xây dựng, phát triển đất nước. Đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, tư duy và tầm nhìn đó càng có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu, sản xuất các loại vũ khí hiện đại; tự chủ phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ, nhất là tự chủ từ nghiên cứu thiết kế đến sản xuất, phù hợp với điều kiện tác chiến của Quân đội, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi tình huống.

Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và sự phối hợp, hỗ trợ hiệu quả của Bộ Khoa học và Công nghệ, công tác KHCN trong ngành CNQP nói chung và Tổng cục CNQP nói riêng đã đạt những thành tích đáng khích lệ, tạo tiền đề để phát triển CNQP Việt Nam tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng. Hiện nay, CNQP Việt Nam đã nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa được nhiều chủng loại vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) hiện đại với hàm lượng KHCN cao. Trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển công nghệ mới, vật liệu mới đã phát triển công nghệ mới, xây dựng dây chuyền công nghệ sản xuất một số loại VKTBKT bằng lực lượng khoa học kỹ thuật trong nước. Nhiều loại VKTBKT hiện đại được triển khai nghiên cứu phát triển.

Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, Tổng cục CNQP hiện đang quản lý phần lớn cơ sở CNQP nòng cốt, gồm các viện nghiên cứu và nhà máy sản xuất quốc phòng, Trường Cao đẳng CNQP và kho dự trữ vật tư sản xuất quốc phòng. Với đội ngũ cán bộ KHCN của các viện nghiên cứu và năng lực dây chuyền công nghệ của các nhà máy hiện có, Tổng cục CNQP có nhiều thuận lợi trong thực hiện các nhiệm vụ KHCN từ khâu tổ chức nghiên cứu, chế thử đến sản xuất loạt sản phẩm. Sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu KHCN với sản xuất quốc phòng là nét đặc trưng riêng của Tổng cục CNQP so với các đơn vị khác trong toàn quân. Do đó, Tổng cục CNQP luôn là một trong những đơn vị dẫn đầu toàn quân về công tác nghiên cứu KHCN và có nhiều sản phẩm VKTBKT được đưa vào sản xuất, đáp ứng nhu cầu trang bị cho Quân đội.


Công nhân Nhà máy Z115 trong giờ sản xuất.            Ảnh: CTV

Đến nay, Tổng cục CNQP đã làm chủ thiết kế, công nghệ chế tạo VKTBKT cho sư đoàn bộ binh đủ quân; đáp ứng một phần VKTBKT cho các binh chủng như pháo binh, tăng thiết giáp; bước đầu nghiên cứu, sản xuất được một số VKTBKT cho lục quân, hải quân, không quân. Trong 10 năm qua, tỷ lệ sản phẩm của các đề tài nghiên cứu KHCN được ứng dụng vào thực tiễn đạt khoảng 85%, nhiều sản phẩm đạt tỷ lệ nội địa hóa lên tới hơn 90%. Ngoài ra, công tác KHCN đã hỗ trợ các đơn vị trong việc nghiên cứu xây dựng và ứng dụng các phần mềm phục vụ công tác quản lý, chỉ huy điều hành nhanh chóng, thông minh, chính xác hơn trên môi trường số, nâng cao hiệu quả quản trị, điều hành trong sản xuất quốc phòng. Qua đó, có thể thấy công tác KHCN có vai trò rất lớn đối với nhiệm vụ sản xuất quốc phòng, góp phần hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất, kinh doanh của các đơn vị và hoàn thành nhiệm vụ chung của Tổng cục CNQP.

Trong thời gian tới, Tổng cục CNQP tiếp tục phát huy thế mạnh, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đổi mới tư duy, sáng tạo, huy động mọi nguồn lực, tăng cường hợp tác, tập trung nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm quốc phòng theo 5 nhóm VKTBKT đã nêu trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 26/1/2022 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh phát triển CNQP đến năm 2030 và những năm tiếp theo". Đồng thời, triển khai nghiên cứu KHCN đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình, kế hoạch, bước đi cụ thể, bám sát nhu cầu trang bị và chiến lược phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo trong Quân đội đến năm 2030. Tăng cường đầu tư, đổi mới dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại và khai thác hiệu quả dây chuyền công nghệ đã được đầu tư. Đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong nghiên cứu, chế tạo VKTBKT mới, hiện đại đáp ứng nhu cầu trang bị cho Quân đội và tiến tới xuất khẩu. Bên cạnh đó, xây dựng đội ngũ cán bộ KHCN đảm bảo đủ năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu KHCN với các đơn vị ngoài Quân đội và hợp tác quốc tế, tiếp thu kinh nghiệm KHCN của các nước tiên tiến để phục vụ nghiên cứu phát triển sản phẩm quốc phòng mới.

Tổng cục CNQP đã làm chủ thiết kế, công nghệ chế tạo VKTBKT cho sư đoàn bộ binh đủ quân; đáp ứng một phần VKTBKT cho các binh chủng như pháo binh, tăng thiết giáp; bước đầu nghiên cứu, sản xuất được một số VKTBKT cho lục quân, hải quân, không quân.

Để thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, công tác KHCN trong Tổng cục CNQP cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cụ thể như sau:

Một là, tiếp tục quán triệt quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã xác định trong các nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương về công tác KHCN. Bám sát chủ trương, định hướng phát triển KHCN trong kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 trong Quân đội để xây dựng định hướng, kế hoạch, lộ trình nghiên cứu KHCN gắn với sản xuất quốc phòng phù hợp tình hình thực tiễn.

Hai là, hoàn thành các chương trình, dự án KHCN trọng điểm đã được Bộ Quốc phòng giao. Đồng thời, phối hợp với các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng tổng hợp, rà soát nhu cầu sử dụng, cải hoán, sửa chữa VKTBKT của các đơn vị trong toàn quân và năng lực của các viện nghiên cứu, học viện, nhà trường trong Quân đội, đơn vị sản xuất quốc phòng để đề xuất mở mới các chương trình, dự án, nhiệm vụ KHCN các cấp, đáp ứng nhu cầu huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của Quân đội.

Ba là, các đơn vị cần chủ động đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng KHCN. Trong đó, các viện nghiên cứu cần xây dựng chiến lược nghiên cứu KHCN theo hướng chuyên sâu và gắn với chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm phát huy tối đa năng lực, thế mạnh; tăng cường nghiên cứu cơ bản, kết hợp với nghiên cứu ứng dụng và phối hợp chặt chẽ với các cơ sở sản xuất quốc phòng trong nghiên cứu, chế tạo sản phẩm quốc phòng mới. Chú trọng đầu tư tiềm lực KHCN để nâng cao năng lực về đo lường, kiểm tra, thử nghiệm VKTBKT mới, công nghệ cao. Thực hiện chuyển đổi sang doanh nghiệp KHCN tự chủ để đẩy mạnh đổi mới sáng tạo. Các đơn vị sản xuất quốc phòng cần chủ động triển khai ứng dụng thành tựu KHCN ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất, coi đây là nhân tố quyết định đến sự phát triển nhanh, bền vững. Đẩy mạnh và khuyến khích các hoạt động nghiên cứu, cải tiến kỹ thuật công nghệ; từng bước ứng dụng KHCN tiên tiến, hiện đại ở những công đoạn sản xuất quan trọng, dễ xảy ra mất an toàn lao động và nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.

Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KHCN kết hợp với đào tạo, đào tạo lại đảm bảo số lượng, chất lượng cán bộ kỹ thuật công nghệ, nghiên cứu viên, công nhân có trình độ tay nghề cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Chất lượng nguồn nhân lực là một nhân tố quyết định trong nghiên cứu KHCN và sản xuất quốc phòng, các đơn vị cần có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thu hút, tuyển dụng, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu, chế tạo VKTBKT mới, công nghệ cao.

Năm là, huy động nguồn lực tài chính để nghiên cứu phát triển các sản phẩm quốc phòng mới; nhiệm vụ KHCN trọng tâm, cấp bách đáp ứng yêu cầu trang bị cho Quân đội. Tăng cường trích lập và sử dụng có hiệu quả quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp cho nghiên cứu, chế tạo các sản phẩm quốc phòng mới. 

Sáu là, đổi mới tư duy, sáng tạo trong công tác nghiên cứu KHCN và quản trị doanh nghiệp. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong công tác quản lý KHCN, chỉ đạo, điều hành của các đơn vị trong Tổng cục. Xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ để triển khai các dây chuyền tự động hóa và nhà máy thông minh.

Bảy là, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KHCN. Tăng cường liên kết với doanh nghiệp công nghiệp dân sinh, các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu trong và ngoài Quân đội trên cơ sở luật pháp và lợi ích theo phương châm từng bước hình thành tổ hợp CNQP với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp.

Trong thời gian tới, để thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra, nhiệm vụ công tác KHCN sẽ rất nặng nề, đòi hỏi sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu và sản xuất. Với sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ KHCN và công nhân viên, người lao động, tin tưởng rằng, Tổng cục CNQP sẽ tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu, chế tạo, cải hoán, sửa chữa các loại VKTBKT đáp ứng nhu cầu của Quân đội, đồng thời tạo ra các sản phẩm lưỡng dụng phục vụ nhu cầu dân sinh. Qua đó, góp phần xây dựng nền CNQP chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia.

Thiếu tướng, TS. NGUYỄN HỒNG SƠN

Cục trưởng Cục Quản lý công nghệ - Tổng cục Công nghiệp quốc phòng

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại