Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp quân đội trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế

6/2/2017 9:32:20 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 47

(CNQP&KT) - Doanh nghiệp quân đội (DNQĐ) là một bộ phận của doanh nghiệp nhà nước, do Bộ Quốc phòng quản lý. Đây là lực lượng nòng cốt của Quân đội, thực hiện nhiệm vụ sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước; đồng thời giữ gìn, phát triển năng lực sản xuất sản phẩm quân sự, góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Việc sắp xếp, đổi mới doanh nghi

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc đổi mới, sắp xếp, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, trong nhiều năm qua, các DNQĐ đã từng bước được tinh giản, giảm đáng kể số lượng đầu mối, hình thành các tập đoàn, tổng công ty có quy mô lớn để có điều kiện tập trung đầu tư máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; đồng thời, đáp ứng tốt hơn cho nhiệm vụ quốc phòng-an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc và thực hiện Chỉ thị 430-CT/QUTƯ, ngày 12/6/2015 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về sắp xếp đổi mới và phát triển DNQĐ giai đoạn 2016-2020, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong toàn quân đang tích cực triển khai thực hiện Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Văn bản số 1604/TTg-ĐMDN, ngày 10/8/2013 và Văn bản số 25/TTg-ĐMDN, ngày 30/3/2015. Theo đó, Bộ Quốc phòng đã phê duyệt các Kế hoạch 64/CKT-QLDN, 577/CKT-QLDN và chỉ đạo quyết liệt thực hiện Đề án tái cấu trúc các DNQĐ giai đoạn 2016-2020 theo hướng tập trung xây dựng các doanh nghiệp phục vụ cho phát triển công nghiệp quốc phòng và một số ngành, nghề quân đội có thế mạnh; nghiên cứu bổ sung vốn điều lệ cho các doanh nghiệp; đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn, sáp nhập, giải thể các doanh nghiệp xây dựng, thương mại nhằm thu gọn đầu mối. Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với Luật Doanh nghiệp, đảm bảo cho doanh nghiệp tự chủ trong sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật và nâng cao năng lực cạnh tranh đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Một trong những nội dung của quá trình tái cơ cấu lại DNQĐ, trong đó có các doanh nghiệp quốc phòng - an ninh, là cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa công nghiệp quốc phòng, an ninh với các ngành công nghiệp dân sinh trong phân công chuyên môn hóa sản xuất, tạo ra cơ cấu sản phẩm hợp lý, hiệu quả. Về kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp sẽ thực hiện theo hướng, đối với những công ty nhỏ, không có nhu cầu quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, trình độ quản lý và hiệu quả hoạt động thấp, sẽ được tổ chức lại theo hình thức phù hợp. Đối với các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng mà Nhà nước không nhất thiết nắm giữ 100% vốn, chủ yếu sản xuất các sản phẩm kinh tế, thì tiếp tục thực hiện cổ phần hóa. Các công ty đạt hiệu quả kinh doanh cao, có thế mạnh về vốn, công nghệ, thị trường, trình độ quản lý, sẽ tổ chức lại theo mô hình công ty mẹ - công ty con, thực hiện hạch toán độc lập, nâng cao khả năng tự chủ của doanh nghiệp. Quá trình tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước là quá trình điều chỉnh, sắp xếp, nâng cao hiệu quả hoạt động của những doanh nghiệp có ngành nghề đặc thù phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; số doanh nghiệp này nhất thiết phải do Nhà nước và Bộ Quốc phòng thống nhất quản lý. Cùng với đó, quá trình sắp xếp sẽ từng bước tinh giản bộ phận quản lý nội bộ doanh nghiệp kinh tế quốc phòng; nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ; đào tạo, tuyển dụng và bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động trong doanh nghiệp, có chính sách thu hút và đãi ngộ thỏa đáng đối với những người có tay nghề cao, phát huy tốt nhất năng lực, trình độ chuyên môn của họ.



Cảng container quốc tế Tân cảng – Cái Mép.                                                    Ảnh C.T.V


Theo kế hoạch, đến hết năm 2016, Quân đội thực hiện cổ phần hóa 50 doanh nghiệp, thoái vốn ở 21 công ty cổ phần, giải thể 5 doanh nghiệp. Mặc dù việc thực hiện đã đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng nhìn chung tiến độ tái cơ cấu còn chậm so với kế hoạch. Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của một số́p ủy, chỉ huy ở các đơn vị, doanh nghiệp chưa đầy đủ. Việc tổ chức, sắp xếp chưa tuân thủ các quy định của Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; chưa mạnh dạn sáp nhập, giải thể các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro, mất an toàn về tài chính. Đặc biệt, việc quán triệt, thực hiện Chỉ thị 430-CT/QUTƯ của Thường vụ Quân ủy Trung ương ở một số cấp ủy, chỉ huy đơn vị, doanh nghiệp chưa nghiêm, dẫn đến công tác tham mưu chưa đúng, chưa trúng, chậm thực hiện kế hoạch của Bộ Quốc phòng.

Để khắc phục những mặt còn tồn tại, đẩy nhanh tiến độ triển khai đổi mới, sắp xếp các DNQĐ theo định hướng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Trước hết, quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ, nắm vững định hướng của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về đổi mới, sắp xếp và phát triển các DNQĐ. Trong đó, cần xác định: Đổi mới, sắp xếp và phát triển DNQĐ phải được thực hiện đúng pháp luật; sắp xếp số lượng DNQĐ ở mức hợp lý, kết hợp khoa học giữa tổ chức doanh nghiệp với tổ chức lực lượng, đảm bảo các doanh nghiệp sẵn sàng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng khi có tình huống xảy ra. Quá trình triển khai thực hiện tái cơ cấu, các DNQĐ cần chú trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị doanh nghiệp, thực hiện sản xuất, kinh doanh gắn với xây dựng thương hiệu, phát triển bền vững. Theo chủ trương của Bộ Quốc phòng, những doanh nghiệp trong diện được giữ lại phải là doanh nghiệp quốc phòng - an ninh, vừa làm nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh hiệu quả, vừa sẵn sàng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; có năng lực đủ mạnh để cạnh tranh trong nước và hội nhập quốc tế. Theo đó, những doanh nghiệp cùng ngành nghề tổ chức lại thành tổng công ty, tập đoàn mạnh, làm nòng cốt cho các doanh nghiệp nhà nước; một số doanh nghiệp là công ty con của tổng công ty hoặc quy mô hoạt động nhỏ, hiệu quả kinh tế chưa cao, nhưng có nhiệm vụ quân sự, quốc phòng thì chuyển đổi thành chi nhánh của tổng công ty hoặc đơn vị sự nghiệp công lập. Thực hiện cổ phần hóa hoặc thoái vốn nhà nước đối với phần lớn các doanh nghiệp xây dựng, thương mại và coi đây là biện pháp chủ yếu của tiến trình tái cấu trúc, sắp xếp các DNQĐ từ nay đến năm 2020. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ đảm bảo được tính chủ động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, tăng được nguồn lực, chống được sức ỳ, lực cản... tạo điều kiện để doanh nghiệp tái cấu trúc hiệu quả.

Hai là, tích cực nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DNQĐ. Để tăng cường tính chủ động, sáng tạo, phát huy tiềm năng, lợi thế về tổ chức, kinh nghiệm, trang thiết bị, các DNQĐ cần tích cực đổi mới, tăng cường trang thiết bị và công nghệ phù hợp với trình độ tiên tiến; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tạo ra năng suất lao động ngày càng tăng, chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ, nhằm tạo sức cạnh tranh trên thị trường. Trong đó, chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố quyết định để tăng năng suất lao động và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Mặt khác, tăng cường trang bị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp những kiến thức và hiểu biết về các tổ chức, hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký với các quốc gia và các tổ chức quốc tế. Các DNQĐ cần khai thác những thông tin, nhất là các rào cản thương mại đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường đối tác, như: EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga, ASEAN…; đồng thời, tận dụng sức mạnh tập thể để hỗ trợ nhau trong cạnh tranh quốc tế. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm và dịch vụ tới các tổ chức, nhà đầu tư, tìm kiếm cơ hội hợp tác, nhằm giúp doanh nghiệp hoạt động đúng định hướng, tận dụng thời cơ, hạn chế rủi ro để ổn định và phát triển.

Ba là, tiếp tục đổi mới công tác quản trị doanh nghiệp, tạo cơ cấu tổ chức hợp lý làm động lực nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và sức cạnh tranh của DNQĐ. Trong đó, cần chú trọng đổi mới một cách đồng bộ, trọng tâm là xây dựng khung pháp lý và duy trì thực hiện các quy định, quy chế, chuẩn mực và kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả, trách nhiệm, tính công khai, minh bạch trong quản lý, điều hành của bộ máy quản lý doanh nghiệp, bảo đảm quyền lợi của chủ sở hữu, người lao động và các bên có liên quan. Bên cạnh đó, tăng cường công tác giám sát nội bộ và giám sát bên ngoài, thông qua các công cụ, như: kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập, minh bạch hóa thông tin, minh bạch hóa giao dịch nội bộ và giao dịch kinh doanh với các bên có lợi ích liên quan, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động giao dịch.

Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp. Cần có chế tài xử lý nghiêm những sai phạm của người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Đây có thể được xem là giải pháp có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả của việc tái cấu trúc DNQĐ hiện nay. Do vậy, cần tập trung nâng cao nhận thức, năng lực tư duy cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các doanh nghiệp và đội ngũ cán bộ tham mưu, giúp việc ở các cơ quan; chú trọng kiện toàn tổ chức gắn với nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, đảm bảo giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các DNQĐ. Ngoài ra, cần làm tốt công tác đào tạo nguồn cán bộ phục vụ cho nhiệm vụ tái cấu trúc cũng như quản lý, chỉ huy, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong các giai đoạn tiếp theo.

Năm là, quan tâm giải quyết tốt việc làm và chính sách, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Thực tế sau tái cấu trúc, bên cạnh việc bảo đảm tốt việc làm và các chế độ chính sách cho người lao động, các doanh nghiệp sẽ phải tổ chức, sắp xếp lại lao động. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư, tình cảm, trách nhiệm và nguyện vọng của người lao động đối với doanh nghiệp. Do đó, các DNQĐ cần chủ động xây dựng phương án tổ chức biên chế phù hợp với tình hình cụ thể, trên cơ sở lấy hiệu quả sản xuất, kinh doanh là chính; có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động; đồng thời, có chính sách thu hút người lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhất là người có trình độ, tay nghề giỏi, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của doanh nghiệp.

Sắp xếp, đổi mới hoạt động doanh nghiệp nhà nước, trong đó có các DNQĐ, là xu hướng phát triển tất yếu của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, là yêu cầu cần thiết của tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là một vấn đề lớn, cần có sự nghiên cứu kỹ, thống nhất chủ trương, giải pháp và lộ trình phù hợp; đòi hỏi sự nỗ lực chung của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong toàn quân trong triển khai thực hiện.

Thượng tướng Trần Đơn

 Uỷ viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại