Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học - công nghệ phục vụ phát triển công nghiệp quốc phòng

10/7/2024 4:16:55 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 27

CNQP&KT - Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: "Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế". Theo đó, khoa học và công nghệ (KHCN) là nội dung cần được ưu tiên đầu tư trong hoạt động của các ngành, các cấp.

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 26/1/2022 của Bộ Chính trị về "đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo" xác định mục tiêu phát triển công nghiệp quốc phòng (CNQ) "đủ năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật có tính năng chiến thuật - kỹ thuật cao theo yêu cầu trang bị cho lực lượng vũ trang, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng Quân đội hiện đại". Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục CNQP đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết về phát triển KHCN, nhất là Nghị quyết số 1652-NQ/QUTW ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo công tác KHCN quân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Cùng với phát huy nội lực, chủ động nghiên cứu, sản xuất sản phẩm quốc phòng và kinh tế, đã đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ hợp tác trong nghiên cứu KHCN phục vụ phát triển CNQP để "đi tắt, đón đầu" thành tựu KHCN mới. Qua đó, góp phần nâng cao trình độ nghiên cứu trong nước theo chuẩn mực quốc tế, rút ngắn khoảng cách công nghệ với thế giới. Tiềm lực KHCN phục vụ phát triển CNQP được nâng lên, từ chủ yếu mua sắm sang tự nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sản xuất, cải tiến vũ khí, trang bị (VKTB) với tỷ lệ nội địa hóa cao. Nhiều VKTB thế hệ mới đã được đưa vào huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, như: vũ khí bộ binh, các loại tàu thuyền, radar, thiết bị tác chiến điện tử... Hợp tác trong và ngoài nước về KHCN được triển khai toàn diện, thống nhất, gắn kết ngày càng chặt chẽ giữa Bộ Quốc phòng với các bộ, ngành; chú trọng hợp tác nghiên cứu, ứng dụng KHCN giữa các đơn vị, doanh nghiệp quốc phòng với các học viện, viện nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài nước. Đồng thời, triển khai hiệu quả chiến lược phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo đến năm 2030; xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật, nhân lực KHCN, công nghệ nền, công nghệ lõi...

Thực tế cho thấy, việc tham gia hiệu quả của các doanh nghiệp quân đội trong nghiên cứu KHCN, trong đó có Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) và các đơn vị thuộc Tổng cục CNQP đã góp phần tăng thêm nguồn lực, từng bước phát triển CNQP công nghệ cao. Ngành CNQP có đủ năng lực tự chủ nghiên cứu, sản xuất các loại VKTB cho sư đoàn đủ quân, thông tin liên lạc; chế tạo một số hệ thống tích hợp, cụm khối cơ khí, điện tử, vật tư, linh kiện cho các quân, binh chủng, ngành; các loại vũ khí, khí tài mới, hiện đại. Hợp tác nghiên cứu KHCN trong và ngoài nước đã giúp làm chủ được nhiều công nghệ nền, công nghệ lõi; các mác thuốc phóng, thuốc nổ thế hệ mới, các phần mềm điều khiển vũ khí; nghiên cứu chế tạo một số loại vật tư tiêu hao bảo đảm cho tàu ngầm, máy bay... Mặt khác, đã thúc đẩy mối quan hệ gắn kết giữa trường đại học, viện nghiên cứu với doanh nghiệp trong nghiên cứu KHCN và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển CNQP. Trong đó, doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm; viện nghiên cứu, học viện, nhà trường là các chủ thể nghiên cứu mạnh; cơ quan quản lý nhà nước thực hiện vai trò định hướng, điều phối, kiến tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác nghiên cứu KHCN và đổi mới sáng tạo.

Ngành CNQP có đủ năng lực tự chủ nghiên cứu, sản xuất các loại VKTB cho sư đoàn đủ quân, thông tin liên lạc; chế tạo một số hệ thống tích hợp, cụm khối cơ khí, điện tử, vật tư, linh kiện cho các quân, binh chủng, ngành; các loại vũ khí, khí tài mới, hiện đại.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc hợp tác trong và ngoài nước về nghiên cứu KHCN phục vụ phát triển CNQP có mặt chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn; cơ sở hạ tầng, trình độ của một số tổ chức KHCN còn hạn chế; thiếu chuyên gia đầu ngành, nhất là trong lĩnh vực thiết kế, chế tạo; chưa khắc phục được tình trạng khép kín, thiếu liên kết trong thực hiện nhiệm vụ KHCN. Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo hành lang pháp lý, huy động nguồn lực để thúc đẩy KHCN và đổi mới sáng tạo cho hợp tác trong và ngoài nước còn bất cập, chưa đồng bộ…

Trong thời gian tới, để tiếp tục nâng cao hiệu quả hợp tác nghiên cứu KHCN phục vụ phát triển CNQP, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật, quản lý nhà nước về KHCN và đổi mới sáng tạo.

Theo đó, cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Bộ Chính trị về "tăng cường liên kết, chuyển giao, chuyển đổi công nghệ giữa công nghiệp dân sinh và CNQP, hình thành một số nền tảng đổi mới sáng tạo dùng chung". Tăng cường tham gia, phối hợp hiệu quả với các bộ, ngành liên quan để sửa đổi, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về KHCN và các luật liên quan phù hợp với những yêu cầu mới. Đổi mới toàn diện hoạt động quản lý, tổ chức triển khai các nhiệm vụ KHCN theo hướng công khai, minh bạch, khách quan, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Trước mắt, sớm ban hành các quy định, chế tài về liên doanh, liên kết hợp tác nghiên cứu KHCN trong và ngoài nước; nhập khẩu thiết bị, vật tư phục vụ phát triển CNQP; xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ CNQP; hợp tác quốc tế về chuyển giao công nghệ; đào tạo, thuê chuyên gia nước ngoài; xúc tiến thương mại quân sự và các hoạt động khác. Cùng với đó, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về hợp tác nghiên cứu KHCN và đổi mới sáng tạo, tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy liên kết giữa các tổ chức, đơn vị trong lĩnh vực này.


Tập đoàn Viettel vận hành phòng thí nghiệm mở đạt tiêu chuẩn quốc tế Viettel Innovation Lab.   Ảnh: QUỲNH NGUYỄN

Hai là, nâng cao hiệu quả hợp tác đào tạo nguồn nhân lực nghiên cứu KHCN cho phát triển CNQP.

Tăng cường sự gắn kết giữa viện nghiên cứu, học viện, nhà trường, doanh nghiệp để tạo thuận lợi trong công tác đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao cũng như cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ nghiên cứu KHCN. Công tác đào tạo cần gắn với thực hiện các đề tài nghiên cứu hoặc qua các dự án hợp tác trong và ngoài nước, các chương trình của Nhà nước. Ngoài ra, cần khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo nhân lực KHCN cho phát triển CNQP. Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch hợp tác đào tạo với các đối tác có nền KHCN tiên tiến. Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên gia đầu ngành có khả năng điều phối, tổ chức thực hiện các chương trình, dự án lớn; xây dựng đội ngũ chuyên gia công nghệ, kỹ sư trưởng, tổng công trình sư trên các lĩnh vực trọng điểm, như: cơ khí chế tạo, hóa chất, vật liệu mới, luyện kim; nghiên cứu, thiết kế vũ khí chiến lược, vũ khí tích hợp, vũ khí cơ động… Điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chính sách tiền lương, đãi ngộ thỏa đáng đối với các nhà khoa học giỏi trong và ngoài nước.

Ban hành các quy định, chế tài về liên doanh, liên kết hợp tác nghiên cứu KHCN trong và ngoài nước; nhập khẩu thiết bị, vật tư phục vụ phát triển CNQP; xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ CNQP; hợp tác quốc tế về chuyển giao công nghệ...

Ba là, ưu tiên đầu tư nguồn lực cho các chương trình, dự án hợp tác nghiên cứu KHCN phát triển vũ khí công nghệ cao.

Sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích nguồn lực từ ngân sách nhà nước đầu tư cho hợp tác nghiên cứu KHCN và đổi mới sáng tạo; ưu tiên kinh phí cho các chương trình, nhiệm vụ KHCN trọng điểm nghiên cứu VKTB hiện đại, vũ khí chiến lược; tập trung, tích tụ nguồn lực để đầu tư trọng điểm, có chiều sâu nhằm nâng cao tiềm lực KHCN cho một số viện nghiên cứu, học viện, trường đại học, phòng thí nghiệm đạt mức độ hiện đại của quốc gia và khu vực. Tăng cường trích lập và sử dụng có hiệu quả nguồn quỹ của doanh nghiệp cho nghiên cứu KHCN phát triển CNQP công nghệ cao. Bên cạnh đó, đẩy mạnh xã hội hóa nguồn lực đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp, thành phần kinh tế tích cực đầu tư cho KHCN và đổi mới sáng tạo. Ngoài ra, cần chủ động tìm kiếm, thu hút đầu tư nước ngoài cho các chương trình, dự án hợp tác nghiên cứu KHCN và đổi mới sáng tạo.

Bốn là, đẩy mạnh hợp tác trong nước và quốc tế về KHCN.

Bộ Quốc phòng tăng cường phối hợp với các bộ, ngành, nòng cốt là Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo đến năm 2030. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các viện nghiên cứu, học viện, trường đại học trong và ngoài nước tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế. Thúc đẩy hội nhập sâu rộng, mở rộng hợp tác quốc tế, nhất là với các đối tác chiến lược và tận dụng cơ hội từ việc tham gia các hiệp định thương mại đa phương, song phương để tiếp nhận chuyển giao, ứng dụng KHCN tiên tiến phát triển CNQP. Mặt khác, tổ chức các hoạt động triển lãm, diễn đàn, sàn giao dịch, chợ công nghệ để giới thiệu, chuyển giao kết quả nghiên cứu KHCN.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác trong và ngoài nước về KHCN phục vụ xây dựng và phát triển CNQP, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong tình hình mới.

Đại tá NGUYỄN ĐÌNH HOÀN

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại