Phát triển kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng biển, đảo

11/17/2023 2:43:15 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 94

CNQP&KT - Biển, đảo là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Muốn phát triển bền vững, Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, an ninh và an toàn.

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhận thức biển, đảo là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Muốn phát triển bền vững, Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, an ninh và an toàn. Vì vậy, cần phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh (QP-AN), giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trên cơ sở khai thác mọi nguồn lực, tập trung xây dựng thế trận QP-AN gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên biển.

Với vị trí địa kinh tế nằm ở cửa ngõ Biển Đông, có 3.260km chiều dài bờ biển; vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng lớn (trên 1 triệu km2), cùng gần 3.000 hòn đảo lớn nhỏ... Việt Nam có lợi thế trong phát triển kinh tế biển, là cầu nối quan trọng với các tuyến hàng hải trong và ngoài khu vực Thái Bình Dương, đồng thời, có vị trí đặc biệt về quân sự - quốc phòng. Đảng ta xác định mục tiêu: "Đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển, giàu lên từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo"1.


Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Cù Lao Chàm (Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Nam) phối hợp tuần tra tuyến biên giới biển.       Ảnh: CTV

Đảng ta nhận định: "Dự báo trong thời gian tới, tình hình quốc tế tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp... tranh chấp chủ quyền ranh giới biển và sự bất đồng giữa các nước tại Biển Đông. Ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, biến đổi khí hậu, nước biển dâng đã trở thành vấn đề cấp bách toàn cầu"2. Các vấn đề này đe dọa đến toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia trên biển và từ hướng biển. Vì vậy, phát triển kinh tế gắn với chủ động phòng ngừa từ sớm, từ xa những bất ổn trên biển và từ hướng biển là yêu cầu khách quan của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: "Xây dựng và củng cố các tuyến phòng thủ biên giới, biển, đảo... Chủ động chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ... trong mọi tình huống"3.

Do vậy, nhằm chủ động phòng tránh những nhân tố bất ổn, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm QP - AN, cần chú trọng một số giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) vùng biển, đảo, gắn với bảo vệ, củng cố quốc phòng -

an ninh (QP-AN) trên biển.

Việt Nam có các vùng biển và thềm lục địa rộng lớn, chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Biển Việt Nam được xem là "lá chắn sườn" trong hệ thống phòng thủ quan trọng, bảo vệ đất nước… Vì vậy, "kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường QP-AN; nhất là tại địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo"4 là vấn đề Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chú trọng. Do đó, cần lồng ghép các chương trình phát triển bền vững KT-XH khu vực dọc biên giới và biển, đảo; xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động khu kinh tế - quốc phòng (KTQP) ở vùng biên giới, biển, đảo; thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế biển và vùng ven biển, tăng cường bảo vệ, hỗ trợ ngư dân bám biển, khai thác thủy sản hiệu quả, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Theo đó, phát triển KT-XH gắn với củng cố QP-AN vùng biển, đảo giai đoạn hiện nay cần coi trọng kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa ba yếu tố: bảo vệ, được bảo vệ và tham gia bảo vệ; xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực KT-XH, khoa học - công nghệ, tăng cường củng cố QP-AN; phấn đấu đến năm 2030, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 65-70% tổng GDP của cả nước. Bảo đảm hài hòa giữa khai thác, sử dụng tài nguyên, môi trường biển với công tác bảo vệ, bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái biển, ven biển. Có chính sách thu hút đầu tư cho phát triển các ngành kinh tế biển; phát triển hệ thống cảng biển, vận tải biển, khai thác đánh bắt hải sản; phát triển du lịch và kinh tế đảo. Xây dựng và giải quyết tốt vấn đề quy hoạch vùng ven biển, xây dựng các trung tâm kinh tế, các hải cảng lớn tương ứng với vai trò vừa là "bàn đạp" tiến ra biển, vừa là "đầu tàu" lôi kéo các vùng kinh tế khác phát triển. Đồng thời, chú trọng phát triển các thiết chế văn hóa cho cộng đồng dân cư vùng ven biển, đảo.

Kiên trì xây dựng và duy trì môi trường hòa bình, ổn định và trật tự pháp lý trên biển, tạo cơ sở cho việc khai thác và sử dụng tài nguyên biển an toàn, hiệu quả. Kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH gắn với bảo đảm QP-AN vùng biển, đảo cần thực hiện trong từng chính sách, từng bước đi, trên từng địa bàn. Việc quy hoạch xây dựng các vùng biển, đảo ở địa bàn chiến lược, cần làm tốt ngay từ khâu thẩm định các khu công nghiệp, kinh tế tập trung, các dự án ven biển, trên đảo; quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng gắn với xây dựng thế trận QP-AN, bao gồm các tuyến đường giao thông, hệ thống sân bay, bến cảng, kho, hệ thống thông tin... không để ảnh hưởng đến thế trận QP-AN.

 

Việt Nam có 3.260km chiều dài bờ biển, có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng lớn (trên 1 triệu km2), có hơn 3.000 đảo và quần đảo lớn nhỏ... là cầu nối quan trọng với các tuyến hàng hải trong và ngoài khu vực Thái Bình Dương.

Hai là, tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.

Những năm qua, với phương châm "chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển", Đảng và Nhà nước luôn chủ động, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế. Yêu cầu khách quan hiện nay là phải đẩy mạnh hợp tác với tầm nhìn chiến lược, tích cực tìm kiếm các phương thức hợp tác, giao lưu trên biển để góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tự do, an ninh hàng hải, qua đó, thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển. Tích cực hợp tác với các nước trong khu vực để giải quyết các vấn đề tranh chấp trên biển. Phối hợp ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế, quân sự - quốc phòng nhằm tăng cường tiềm lực quân sự quốc gia, bảo vệ vững chắc chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Mở rộng chính sách, liên kết làm ăn kinh tế ở vùng biển thuộc quyền chủ quyền của nước ta với những nước phát triển trong khu vực và thế giới, nhằm tạo ra những đối tác đan xen lợi ích trong phát triển kinh tế biển. Thực hiện linh hoạt, mềm dẻo và có sách lược, chiến lược chủ động, xử lý kịp thời, kiên quyết, khôn khéo các tình huống tranh chấp trên biển. Xây dựng các tỉnh ven biển trở thành khu vực phòng thủ vững chắc, bảo đảm chủ quyền an ninh quốc gia trên biển, đảo. Phát huy sức mạnh "mềm" trong quan hệ với các quốc gia có chung đường biên giới trên biển. Chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc bảo tồn, sử dụng bền vững biển và đại dương; tranh thủ tối đa các nguồn lực, sự hỗ trợ quốc tế để nâng cao năng lực quản lý và khai thác biển, trong đó chú trọng các lĩnh vực khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực. Thực hiện các công ước quốc tế về biển, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ lợi ích quốc gia khi giải quyết tranh chấp và hỗ trợ cho phát triển kinh tế biển. Khuyến khích đầu tư từ các công ty lớn của các nước có thiện chí với Việt Nam, có trình độ công nghệ cao về phát triển kinh tế biển, đảo.


Vùng biển miền Trung Việt Nam.            Ảnh: CTV

Ba là, giữ vững thế trận lòng dân trên khu vực biển, đảo.

Sức mạnh của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân. Phát triển kinh tế biển bền vững gắn với nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo là tiền đề quan trọng góp phần tăng cường tiềm lực QP-AN trên biển, xây dựng "thế trận lòng dân" vững mạnh. Theo đó, cần chú trọng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH ven biển, nhất là hạ tầng nghề cá có tính lưỡng dụng; phát triển các dự án, chương trình đánh bắt xa bờ, bảo đảm các nguồn lực, điều kiện cho ngư dân yên tâm vươn khơi, bám biển. Làm tốt công tác di dân đến một số đảo; thực hiện có hiệu quả Chương trình Biển Đông - Hải đảo, góp phần tăng cường thế phòng thủ ở những địa bàn ven biển trọng yếu và trên tuyến đảo, nhất là ở quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa). Đẩy mạnh đầu tư vốn, khoa học - công nghệ cho ngư dân, các lực lượng hoạt động xa bờ (nghề cá, dầu khí), có chính sách ưu tiên cho ngư dân vay vốn, miễn thuế. Ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH và QP-AN trên khu vực quần đảo Trường Sa và các đảo lớn xa bờ.

Tập trung xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo, nhất là lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng và lực lượng dân quân tự vệ biển vững mạnh, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hành động xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam. Xây dựng các đảo, quần đảo có dân và các lực lượng phòng thủ thành cơ sở kinh tế - quốc phòng mạnh, giữ vai trò của các "hạm đội" nổi. Làm tốt công tác dự báo, phòng, chống thiên tai; cứu hộ, cứu nạn trên biển.

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn giữ vai trò quan trọng, làm tăng chiều sâu phòng thủ đất nước từ biển. Với tầm nhìn sâu rộng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã và đang tập trung huy động mọi tiềm năng và lợi thế của biển; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường thế trận QP-AN, tạo môi trường hòa bình, ổn định nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

Thượng tá, ThS. ĐỖ THỊ QUỲNH ANH

Thiếu tá, ThS. HỒ THỊ THỦY

Trường Sĩ quan Lục quân 2

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

1, 2. Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018, Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, "Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045".

3.  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2021, tr.159.

  4. Sđd, tập II, tr.151.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại