Giáo sư Tạ Quang Bửu học gương Bác

2/27/2018 7:43:26 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 25

(CNQP&KT) - LTS: Giáo sư Tạ Quang Bửu là nhà hoạt động xã hội, khoa học và giáo dục nổi tiếng. Thời trẻ, ông từng học ở Trường Đại học Oxford của Anh, có chứng chỉ toán học cao cấp của Pháp.

Năm 1946, ông tham gia cách mạng và được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng cử giữ các chức vụ quan trọng trong Đảng và Quân đội. Để hiểu thêm về khoảng thi gian Giáo sư Tạ Quang Bửu được học tập, công tác bên Bác, Tạp chí CNQP&Kinh tế giới thiệu bài viết của con trai cố Giáo sư Tạ Quang Bửu - Thiếu tướng Tạ Quang Chính, nguyên Chủ nhiệm Chính trị Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (CNQP).


Giáo sư Tạ Quang Bửu (thứ 2 từ phải sang) cùng thành viên Hội đồng Chính phủ chụp ảnh với Bác Hồ, Bác Tôn trên Chiến khu Việt Bắc.                            Ảnh: TL


Sự nghiệp cách mạng của cha tôi

Sự nghiệp cách mạng của cha tôi bắt đầu trước Cách mạng Tháng Tám, khi được Việt Minh giác ngộ và được biết rằng nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam chính là Nguyễn Ái Quốc. Ngày 12/9/1969, mười ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh mất, cha tôi viết những dòng lưu bút trong cuốn sổ của riêng ông để ghi nhớ: “Tôi là một nhà toán học hụt. Nhờ Đảng và Bác, tôi đã có giúp ích ít nhiều cho Đảng và Nhà nước…”. Song, phải nói rằng, cha tôi đi theo cách mạng trước hết là được hun đúc lòng yêu nước thông qua sự ngưỡng mộ Nguyễn Ái Quốc, ngưỡng mộ những chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu mà ông được gặp từ trước Cách mạng Tháng Tám.

Nhờ các nhà cách mạng tiền bối như Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp giới thiệu, cha tôi sớm được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và được Người giao đảm nhiệm cương vị quan trọng trong chính quyền non trẻ, đó là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà những ngày đầu sau Tổng tuyển cử 6/1/1946.

Từ 19/4 đến 11/5/1946, cha tôi tham gia Hội nghị trù bị Đà Lạt chuẩn bị cho Hội nghị Fontainebleau với tư cách cố vấn để bàn về tương lai của Việt Nam. Đến 6/7/1946, cha tôi tiếp tục dự Hội nghị Fontainebleau ở tỉnh Seine-et-Merne của Pháp với tư cách thành viên chính thức để bàn về nước Việt Nam độc lập cùng với tương lai, nguyện vọng của Nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ là thống nhất đất nước.

Kết thúc hội nghị ở Pháp, Bác Hồ cử cha tôi sang Thụy Sĩ dự Lễ kỷ niệm 200 năm thành lập Hội Khoa học tự nhiên Thụy Sĩ. Trong thời gian ở Pháp và Thụy Sĩ, cha tôi đã thu thập được rất nhiều sách, tài liệu cho công tác nghiên cứu, đào tạo nói chung và cho công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự nói riêng (hiện nay, những tài liệu này vẫn được lưu giữ tại Viện Vũ khí - Tổng cục CNQP).

Tháng 7/1947, cha tôi được kết np vào Đảng Cộng sản Đông Dương. T 8/1947 đến 8/1948, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Ủy viên Hội đồng Quc phòng ti cao do Bác Hồ làm chủ tịch. Tháng 9/1948, cha tôi trở lại đảm nhim cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và được Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao chỉ đạo việc xây dựng tổ chức bộ máy cơ quan Bộ Quốc phòng, cơ sở nghiên cứu, công tác đảm bảo vũ khí, trang bị kỹ thuật phục vụ kháng chiến.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, năm 1956, cha tôi được giao làm Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội, sau đó làm Phó Chủ nhiệm kiêm Tổng thư ký Ủy ban Khoa học Nhà nước. Năm 1965, ông được Đảng, Nhà nước bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Trung học chuyên nghiệp.


Tem kỷ niệm 100 năm ngày sinh Giáo sư Tạ Quang Bửu.


Cha tôi học tư tưởng, đạo đức và phong cách Bác

Những ngày sống gần Bác ở Hà Nội và trên chiến khu, cha tôi đã học ở Bác rất nhiều điều, đặc biệt là phong thái của người hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Trong từng hành động, cha tôi luôn khắc ghi những việc làm của Bác để phấn đấu học tập, noi theo. Cha tôi thường kể, Bác làm gì cũng đều rất khoa học, không thiếu nhưng cũng không thừa. Còn những điều thuộc về nguyên tắc, trách nhiệm, Bác rất kiên quyết, thẳng thắn phê bình rất nghiêm khắc. Ví như khi Bác vào hội trường mà mọi người trong hội nghị không đứng dậy, Bác phê bình không tôn trọng, không phải vì cá nhân Bác, mà vì cương vị của Bác; viết thư hoặc viết báo cáo lên trình Bác mà cẩu thả, Bác yêu cầu viết lại. Bác nói: “Các đồng chí viết xong tự đọc lại không được thì ai đọc được”. Bản thân cha tôi cũng từng bị Bác “chê dốt”. Đó là lần Bác yêu cầu ông dịch bản “Tuyên ngôn độc lập” sang tiếng Anh. Sau khi chỉnh sửa bản dịch, Bác bảo cha tôi phát bản dịch tiếng Anh đó lên đài phát thanh. Lúc đó, cha tôi băn khoăn: “Đài phát thanh của ta chỉ phát xa được vài chục cây số, làm sao kẻ địch nghe được?” Nghe vậy, Bác cười: “Chú dốt thế, tai vách mạch rừng, chú cứ phát đi”. Quả nhiên, chỉ vài giờ sau khi bản “Tuyên ngôn độc lập”được phátđi, kẻđịch rt tc ti nhưngđành bt lc trước thếtrn mi ca ta.

Cha tôi kể rằng, để chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bác cùng lãnh đạo Bộ Quốc phòng làm việc với cố vấn Trung Quốc về công tác quân nhu, quân lương, quân y… Với tư cách Thứ trưởng phụ trách Tổng cục Cung cấp, cha tôi báo cáo đề nghị phía bạn viện trợ xăng, dầu, gạo, thuốc. Thực tế lúc này có hiện tượng mất gạo, xăng dọc đường, vì vận tải hao hụt nên sau khi cha tôi phát biểu, đồng chí La Quý Ba,Tổng cố vấn Chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nói: “Đồng ý với các tính toán của đồng chí Tạ Quang Bửu, nhưng cái gì đảm bảo xăng, gạo đến tay bộ đội?”. Nghe vậy, Bác nghiêm nghị nói: “Việc đó đồng chí Tạ Quang Bửu chịu trách nhiệm với tôi. Còn tôi chịu trách nhiệm với Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Đồng chí La Quý Ba im lặng ghi chép yêu cầu của ta. Từ đó, đồng chí La Quý Ba luôn yêu kính Bác như bố mình và thương cha tôi như anh em ruột thịt.

Về tri thức, Bác có vốn hiểu biết rất sâu rộng. Bác rất nhớ truyền thuyết của các dân tộc và những vấn đề lớn của khoa học tự nhiên đang đặt ra. Năm 1948, khi cha tôi viết và in xong cuốn “Nguyên tử, hạt nhân và vũ trụ tuyến”, Bác đọc lúc nào cha tôi không biết, nhưng Bác có đặt câu hỏi: “Sao chú gọi là bom nguyên tử? Đúng ra là bom hạt nhân chứ!” làm cha tôi hết sức ngạc nhiên và khâm phục. Trong văn phong, ngôn ngữ, cha tôi luôn ghi nhớ sự chỉ bảo của Bác là: “Cần gì học nấy, học để làm, học với quần chúng, học lấy những câu chung cho tất cả các ngôn ngữ và dùng đúng chỗ”. Ông rất ngưỡng mộ vốn tiếng Anh của Bác: không quý phái, cũng không khô cứng, người Mỹ, người Anh và các nước khác nghe đều hiểu. Tiếng Việt của Bác cũng là tiếng của cả 3 miền, không của riêng miền nào và vùng nào nghe cũng thấu, cũng hiểu.

Bên cạnh đó, cha tôi rất kính phục Bác trong cách điều hành linh hoạt, uyển chuyển các cuộc họp của Chính phủ ở An toàn khu (ATK). Đó là, giờ giải lao sau mỗi cuộc họp, Bác đều tổ chức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ nên cha tôi và đại biểu dự họp rất thích. Bác chủ trì, lúc đóng vai trò là người dẫn chương trình, lúc lại giải thích, phân tích, chỉ bảo nhẹ nhàng. Có hôm Bác tự kể chuyện cười của chính mình... Bác biết mỗi người đều có tài lẻ, nên có hôm Bác chỉ định ông Phan Anh ngâm Kiều, lúc thì ông Lê Văn Hiến hát bội… làm cho không khí của hội nghị bớt căng thẳng.

Trong công tác đối ngoại, Bác luôn thể hiện là người mến khách, dù ở tầng lớp nào. Bác căn dặn, đã mời khách cùng hút thuốc lá thì đưa thuốc và bật diêm, mời khách uống trà thì phải nâng cốc; đối với phụ nữ phương Tây, nên có một bông hoa. Cha tôi đã học Bác những điều này và vì thế ông luôn được mọi người quý mến, tin yêu. Cha tôi không đi thăm các nước nhiều, nhưng đi đến đâu, từ các nước thuộc Liên Xô (trước đây) đến Đức, Ba Lan… ông đều được tiếp đón nồng hậu. Nhiều thành viên trong đoàn không hiểu sao những buổi làm việc của cha tôi đều đầy ắp tiếng cười. Sang thăm và làm việc tại Việt Nam 2 lần, ông Bộ trưởng Đại học Cộng hòa Dân chủ Đức (trước đây) mới ngoài 40 tuổi, rất quý và coi ông như cha mình, khi về nước thường xuyên gửi lời thăm hỏi.

Ở cuộc sống đời thường, Bác sinh hoạt rất sạch sẽ. Bác nói, vì ý thức công cộng, vì nghèo mà mỗi người sạch một tí thì đời sống sẽ dễ chịu và nhất là sạch đồng nghĩa với không tư hữu. Bác nói vậy và kiểm tra rất chặt chẽ. Cái gì cần làm thì Bác làm, không nói, nhưng ai cũng biết vì Bác gương mẫu. Với bài học này, cha tôi tự nhận là chậm tiến bộ. Nhìn bàn làm việc của ông, chúng tôi ít thấy ngăn nắp, những lúc ngăn nắp nhất là khi mẹ tôi dọn dẹp, xếp ngay ngắn từng chồng sách...

Bác đến nhà ai một lần là nhớ. Nhớ tên, nhớ hoàn cảnh, nhất là các ông bà lớn tuổi và các cháu trẻ thơ. Riêng gia đình tôi, Bác đặt tên cho anh Vinh là “bang bạnh”, anh Quang được Bác rất thương, còn tôi được Bác gọi là "Chính ốm yếu". Bác còn tặng mẹ tôi một đồng tiền vàng in hình Bác, nói là "để nuôi các cháu".

Suốt thời gian được sống và công tác bên Bác, cha tôi không bao giờ tự ái khi bị phê bình, bởi đó là sự chân tình và rất có ích mà Người dành cho cha tôi và các cộng sự. Trong sổ tang Bác, cha tôi đã viết “Nhớ Bác nhất những lúc Bác phê bình mình. Phấn khởi và yêu Bác nhất cũng là những lúc đó”. Bác đã dìu dắt, dẫn lối cho mỗi chúng ta và khi Bác mất, từng người phải tự xác định con đường mình đi. Với tư duy rất duy vật biện chứng đó, sau này tôi mới hiểu hết dòng viết tiếp theo của cha mình trong cuốn sổ đó: “Bác mất, mọi người thêm một cuộc sống mới; đeo băng tang như một tấm khai sinh”.

Thiếu tướng TẠ QUANG CHÍNH

Nguyên Chủ nhiệm Chính trị Tổng cục CNQP

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại