Cách làm việc “từ quần chúng ra, trở về nơi quần chúng” của Hồ Chí Minh được xuất phát từ quan niệm: Nước ta là nước dân chủ, dân là chủ và làm chủ, cán bộ, đảng viên là “công bộc” của dân, luôn đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết. Hồ Chí Minh là lãnh tụ không chỉ nêu tư tưởng mà Người còn thực hành tư tưởng một cách mẫu mực, trở thành tấm gương sáng để mọi cán bộ, đảng viên học tập và làm theo. Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh, nhờ cách làm việc “từ quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng” mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã “đưa chính trị vào giữa dân gian” một cách hiệu quả nhất. Nhờ đó, đã huy động được sức mạnh to lớn của toàn dân, làm nên những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách làm việc “từ quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng” gồm những vấn đề chính sau đây:
Luôn lấy quần chúng làm điểm xuất phát đồng thời là mục đích của mọi chủ trương, chính sách. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (viết năm 1947), Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”1. Từ đó, Người chỉ rõ: “Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc đều vì lợi ích của quần chúng” và yêu cầu cán bộ, đảng viên phải luôn xem xét, nhận thức rõ “ cách tổ chức và cách làm việc nào không phù hợp với quần chúng, thì phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại... cách làm việc nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta phải mạnh dạn đề nghị lên cấp trên mà đặt ra"2.
Phải gần dân, đi sâu vào đời sống của quần chúng nhân dân. Gần dân, theo Hồ Chí Minh là phải đi sâu vào cuộc sống sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt của dân, luôn quan tâm và thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Muốn vậy, cán bộ, đảng viên phải luôn thành tâm, thật sự tin yêu, tôn trọng quần chúng, lắng nghe ý kiến góp ý, phê bình của quần chúng. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành”. Bởi lẽ, “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra"3. Các kết luận được tổng hợp từ nguyện vọng, ý kiến của quần chúng có giá trị rất quan trọng, trở thành cơ sở cho Đảng, Chính phủ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách. Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng trí tuệ quần chúng là rất lớn, cần đi sâu khai thác, học hỏi, song “học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng"4, “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo"5, mà cần có chọn lọc. Thực chất đây là bước lựa chọn, tổng hợp, phân tích, khái quát nguyện vọng, ý kiến của quần chúng để cụ thể hóa thành đường lối lãnh đạo quần chúng.
Phải đi sâu nắm vững tình hình chất lượng cụ thể của quần chúng. Nắm vững tình hình chất lượng cụ thể của quần chúng, theo Hồ Chí Minh là, phân loại được quần chúng với các mức hạng khác nhau để có biện pháp làm việc cho hiệu quả. Người yêu cầu: “Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn"6. Cách làm việc như vậy cho phép cán bộ, đảng viên dựa chắc vào quần chúng để xây dựng kế hoạch cho sát, đúng, quan trọng hơn là giúp cho công tác tổ chức, động viên, huy động được tiềm năng, sức mạnh to lớn của quần chúng để thực hiện thắng lợi kế hoạch đề ra.
Phải tránh xa tệ quan liêu xa rời quần chúng. Với quan điểm cán bộ, đảng viên là “công bộc”, “đày tớ của dân”, Hồ Chí Minh luôn nghiêm khắc phê phán thói lên mặt làm “quan cách mạng”, cửa quyền, mệnh lệnh, ức hiếp nhân dân theo kiểu “thích làm việc bằng giấy tờ, ngồi một nơi chỉ tay năm ngón, không chịu xuống địa phương kiểm tra công tác”, việc gì cũng từ “trên dội xuống”, dùng mệnh lệnh, chỉ thị để lãnh đạo, dẫn đến “những chỉ thị, nghị quyết cấp trên gửi xuống các địa phương có thực hiện được hay không, các đồng chí cũng không biết đến”. Từ đó, Người chỉ rõ: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát"7. Công tác kiểm soát nếu được thực hiện tốt thì “mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và nghị quyết”8.

Bác Hồ thăm nông dân xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên trong mùa gặt (20/9/1954). Ảnh TL
Từ phân tích trên, có thể khái quát nội dung mà cán bộ, đảng viên học tập và làm theo Hồ Chí Minh về cách làm việc “từ quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, bao gồm 4 bước cơ bản sau:
Bước 1: Từ nguyện vọng, sáng kiến của quần chúng khái quát thành các luận cứ khoa học, giữ vị trí là cơ sở xuất phát cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách.
Bước 2: Đưa đường lối, chủ trương, chính sách trở lại nơi quần chúng để chuyển thành nhận thức tự giác của quần chúng.
Bước 3: Tổ chức, hướng dẫn quần chúng triển khai hiện thực hóa đường lối, chủ trương, chính sách.
Bước 4: Bám sát phong trào quần chúng để lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra; phát hiện và nhân điển hình tiên tiến; kịp thời tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm để bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách.
Từ nội dung cơ bản trên, có thể vận dụng vào học tập và làm theo Hồ Chí Minh về cách làm việc "từ quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng" đối với cán bộ, đảng viên Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (CNQP) trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao. Cụ thể:
Một là, phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên thấu hiểu sâu sắc việc học tập và làm theo Hồ Chí Minh về cách làm việc “từ quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với củng cố tăng cường sự thống nhất giữa tổ chức Đảng - chỉ huy - các tổ chức quần chúng, góp phần xây dựng củng cố mối đoàn kết thống nhất trong từng cơ quan, đơn vị cũng như toàn Tổng cục, bảo đảm hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ. Để nâng cao nhận thức, cấp ủy, chỉ huy, các tổ chức quần chúng cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức như sinh hoạt chuyên đề, lồng ghép với sinh hoạt Đảng, chính quyền, đoàn thể; gắn với các cuộc vận động, các phong trào thi đua... Đồng thời, bản thân mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần chủ động tích cực nghiên cứu, học tập, nhận thức thực chất nội dung, ý nghĩa của việc học tập và làm theo Hồ Chí Minh về cách làm việc “từ quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng” đối với chức trách, nhiệm vụ mà mình được giao phó.
Hai là, việc ban hành các quyết định lãnh đạo, quản lý theo thẩm quyền phải luôn xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng, ý kiến đồng thuận của đa số cán bộ đảng viên, người lao động. Cán bộ, đảng viên, nhất là người chủ trì phải luôn ghi nhớ lời căn dặn của Hồ Chí Minh là “khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng”.
Ba là, về tuyên truyền đường lối chủ trương, chính sách: Do trình độ nhận thức của cán bộ cấp dưới không đồng đều, vì vậy, cán bộ, đảng viên, trước hết là người giữ các cương vị lãnh đạo, chỉ huy, quản lý phải đi sâu trong quần chúng, kiên trì giải thích, thuyết phục bằng nhiều hình thức, phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Qua đó, chuyển nhận thức của cấp dưới và quần chúng lên thành tự giác, tạo sự đồng thuận đối với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Tổng cục và từng đơn vị.
Bốn là, về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện: Cán bộ, đảng viên phải thực sự bám sát, đi sâu trong mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị, nhà máy, xí nghiệp để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, kiểm tra, giám sát quá trình thực tiễn hóa đường lối, chủ trương, chính sách, các quyết định, kế hoạch; kịp thời phát hiện những vấn đề bất cập để điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền. Cùng với quá trình tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, cần phát hiện kịp thời những điển hình tiên tiến trong thực hiện các mặt công tác, nhất là nghiên cứu sáng tạo khoa học - công nghệ, sáng kiến cải tiến trong lao động sản xuất... để biểu dương, khen thưởng và nhân rộng điển hình tiên tiến.
Như vậy, cách làm việc “từ quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”9 của Hồ Chí Minh mang giá trị sâu sắc, phổ biến, có sức lan tỏa lâu bền và là tấm gương tiêu biểu cho các thế hệ cán bộ, đảng viên học tập và làm theo. Giá trị đó chính là phương pháp làm việc giúp cho cán bộ, đảng viên tránh được sai lầm, vấp váp, nhằm mục đích cuối cùng là phục vụ lợi ích của quần chúng, phục vụ cách mạng.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 5, tr. 290.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2002, tập 5, tr. 246.
3. Sđd, tr.295.
4. Sđd, tr. 248.
5. Sđd, tr. 293.
6. Sđd, tr. 257.
7. Sđd, tr. 287.
8. Sđd, tr. 288.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 5, trang 248.
Đại tá, PGS, TS Hà Nguyên Cát
(Học viện Quốc phòng)