Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm trong các doanh nghiệp quốc phòng

11/17/2023 2:49:44 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 0

CNQP&KT - Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm là nội dung thiết thực mà hiện nay các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng cần thiết phải quán triệt, vận dụng để nâng cao năng lực sản xuất, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, góp phần xây dựng Quân đội hiện đại và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm là phạm trù rộng lớn, được đề cập trên nhiều lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, tiết kiệm là "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi". Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, mà những việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng. "Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ không phải là tiêu cực"1.

Trong điều kiện vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Hồ Chí Minh khẳng định: "Mục tiêu của tiết kiệm để phục vụ cho kháng chiến và kiến quốc. Để tăng thêm tiền vốn xây dựng đất nước. Điều này càng quan trọng khi nước ta là nước dân chủ nhân dân, không thể tích lũy vốn theo kiểu thực dân, đế quốc bằng cách cướp bóc thuộc địa, bóc lột công nhân, nông dân, vay nợ nước ngoài. Đồng thời, để nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, hậu quả của 80 năm đô hộ, vơ vét của đế quốc Pháp rồi đến phát xít Nhật"2.

Theo Hồ Chí Minh, nội dung tiết kiệm là: Thứ nhất, tiết kiệm sức lao động. Tức là phải tổ chức sắp xếp cho khéo, phải nâng cao năng suất lao động. Thứ hai, tiết kiệm thời giờ: "Thời giờ tức là tiền bạc"; "Một tấc bóng là một thước vàng". "Ai đưa vàng bạc vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ vứt đi, là người ngu dại"3. Tiết kiệm thời giờ của mình và tiết kiệm thời giờ của người khác. Thứ ba, tiết kiệm tiền của. Phải tiết kiệm tiền của của Nhà nước, của nhân dân và của chính mình. Việc này liên quan tới tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời giờ.

Khi nói đến đối tượng phải thực hành tiết kiệm, Hồ Chí Minh khẳng định: Tất cả mọi người đều phải tiết kiệm. Trước hết là các cơ quan, bộ đội, các xí nghiệp. Nội dung tiết kiệm phải cụ thể, thiết thực ngay trong vị trí công tác của mình. Bộ đội, chiến sĩ thì tiết kiệm đạn, quân nhu, chiến lợi phẩm...; cán bộ cơ quan hành chính thì tiết kiệm thời gian, giấy, mực...; cán bộ tư pháp tiết kiệm thời giờ cho dân khi triển khai nhanh công việc...


Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Xưởng may 10, Người góp ý kiến về cách cắt may sao cho nhanh, tiết kiệm, bảo đảm chất lượng (năm 1959) Ảnh: TL

THỰC HÀNH TIẾT KIỆM TRONG DOANH NGHIỆP QUỐC PHÒNG

Hiện nay, xây dựng, phát triển nền Công nghiệp quốc phòng (CNQP) Việt Nam hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và phát triển kinh tế - xã hội là nội dung quan trọng, giải pháp chiến lược được xác định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Thực hiện mục tiêu đó, đòi hỏi sự nỗ lực và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó ngành CNQP là nòng cốt. Gần 80 năm đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, CNQP Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và đang lớn mạnh không ngừng; năng lực của các cơ sở CNQP nòng cốt có sự phát triển mạnh mẽ cả cơ sở hạ tầng kỹ thuật và chất lượng nguồn nhân lực.

Hệ thống doanh nghiệp CNQP là nơi nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị và tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo trên các địa bàn chiến lược, góp phần giữ gìn tiềm lực quốc phòng. Trong đó, nhiều doanh nghiệp CNQP năng động, sáng tạo ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, thực hiện mục tiêu lưỡng dụng trong sản xuất đã chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước. Hoạt động của hệ thống doanh nghiệp CNQP được triển khai đồng bộ theo hai chiều: Một là, đẩy mạnh các lĩnh vực có thế mạnh của CNQP để tham gia phát triển kinh tế - xã hội, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Hai là, huy động tối đa năng lực sản xuất, công nghệ của các thành phần kinh tế công nghiệp dân sinh cho các hoạt động CNQP. Với sự nỗ lực cao, CNQP Việt Nam đã đạt nhiều thành quả nổi bật như: Cơ bản hoàn thành các mục tiêu nghiên cứu, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) cho lực lượng lục quân và góp phần quan trọng hiện đại hóa các lực lượng: hải quân, phòng không - không quân, thông tin liên lạc, tác chiến điện tử, trinh sát kỹ thuật, tình báo, tác chiến không gian mạng... giúp giảm nhập khẩu, tiết kiệm ngân sách nhà nước. CNQP cũng đã làm chủ được một số công nghệ lõi; nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sản xuất được nhiều VKTBKT mới, hiện đại. Đặc biệt, đã làm chủ thiết kế, chế tạo một số chủng loại vũ khí công nghệ cao và các loại radar hiện đại. Cùng với đó, CNQP đã chủ động tham gia sản xuất, sửa chữa các trang - thiết bị, công cụ hỗ trợ, tàu thuyền cho Công an nhân dân và các lực lượng thực thi pháp luật trên biển, cùng nhiều sản phẩm kinh tế dân sinh, xuất khẩu với chất lượng tốt, tương đương sản phẩm nước ngoài.

Để đạt được kết quả nêu trên, một mặt, các doanh nghiệp CNQP đã chủ động xây dựng chiến lược sản xuất, phát triển nguồn nhân lực và công nghệ; mặt khác, các doanh nghiệp đã thực hiện tốt tiết kiệm trong sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, CNQP nước ta còn gặp những khó khăn nhất định khi đất nước đứng trước sự chuyển đổi nhất định về cơ chế và luật pháp để thúc đẩy hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh. Trong khi đó, vẫn còn không ít doanh nghiệp chưa tận dụng tốt các nhân tố cho phát triển sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là tiết kiệm các yếu tố đầu vào, chi phí cả trong sản xuất và ngoài sản xuất.

"Phải tiết kiệm tiền của của Nhà nước, của nhân dân và của chính mình. Việc này liên quan tới tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời giờ".

  (Chủ tịch HỒ CHÍ MINH)

Có thể nói, cùng với thực hiện nhiệm vụ quốc phòng là cốt lõi thì vấn đề cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, trong bối cảnh hội nhập quốc tế là yếu tố cần thiết của mỗi doanh nghiệp CNQP. Do vậy, tiết kiệm trong sản xuất vừa là nhân tố phát huy truyền thống dân tộc, vừa là thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm; đồng thời, là lợi thế so sánh của các doanh nghiệp CNQP. Trong đó, đối với doanh nghiệp CNQP, thực hành tiết kiệm trong sản xuất chính là tiết kiệm về lao động, thời gian, vốn, tư liệu sản xuất... Tiết kiệm trong sản xuất là huy động tối đa và sử dụng tối ưu các tiềm năng sản xuất, đem lại hiệu quả sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp. Ngày nay, khi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật của thị trường: quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu... buộc các doanh nghiệp CNQP cũng phải lấy lợi nhuận làm mục tiêu để không những hoàn thành nhiệm vụ quân sự, quốc phòng mà còn có thể tồn tại và ngày càng phát triển.

Để thực hiện được phương hướng, mục tiêu phát triển, các doanh nghiệp CNQP cần nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí minh về thực hành tiết kiệm ở những nội dung cơ bản sau:

Một là, tiết kiệm phải được thực hiện trên cơ sở không ngừng đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh gắn với phát triển bền vững. Theo đó, nguồn lực đầu tư cần được tập trung vào những công việc có lợi ích thiết thực đối với sản xuất, kinh doanh, mang lại hiệu quả kinh tế cao, vào những công trình kiến thiết cơ bản trọng điểm theo mục tiêu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.

Tiết kiệm trong sản xuất vừa là nhân tố phát huy truyền thống dân tộc, vừa là thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm; đồng thời, là lợi thế so sánh của các doanh nghiệp CNQP.

Hai là, tiết kiệm phải dựa trên cơ sở không ngừng cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới công tác quản lý, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm; giảm chi phí sản xuất, hướng tới kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Ba là, tiết kiệm phải được thực hiện cả trong khu vực sản xuất, kinh doanh trực tiếp và gián tiếp. Quy chế về tiết kiệm phải được tất cả cán bộ, công nhân viên, người lao động tự giác thi hành. Vì vậy, cần phải thường xuyên giáo dục cho cán bộ, công nhân viên, người lao động tinh thần khắc phục khó khăn để đẩy mạnh sản xuất và thực hành tiết kiệm.

Bốn là, tiết kiệm trong sản xuất bao gồm:

Tiết kiệm nhân lực: Sử dụng hiệu quả đội ngũ lao động trên cơ sở lập kế hoạch sản xuất khoa học, hạn chế tối đa thời gian gián đoạn lao động. Thường xuyên tiến hành đào tạo và đào tạo lại, tập huấn bổ sung kiến thức, kỹ năng tay nghề, từ đó tạo cơ sở vững chắc để nâng cao năng suất lao động.

Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu: Trong quá trình sản xuất, cần có sự chuẩn bị và sử dụng hợp lý nguyên vật liệu, không để xảy ra tình trạng thiếu nguyên vật liệu làm đình trệ sản xuất. Đồng thời, không để xảy ra tình trạng nguyên vật liệu dư thừa, "nằm chờ" sản xuất quá lâu sẽ làm tăng chi phí bảo quản, cất trữ...

Tiết kiệm tư liệu lao động, máy móc, thiết bị, nhà xưởng: Tổ chức sản xuất liên tục để giảm hao mòn vô hình tài sản cố định. Bên cạnh đó, có chế độ kiểm tra và bảo dưỡng thường xuyên máy móc, thiết bị, nhà xưởng để giảm hao mòn hữu hình các tài sản cố định.

Tiết kiệm vốn: Huy động và sử dụng vốn hợp lý, quay vòng vốn nhanh, đặc biệt là vốn lưu động.

Nâng cao trình độ cán bộ quản lý sản xuất, kinh doanh: Tích cực nghiên cứu đổi mới, hợp lý hóa quá trình sản xuất. Loại bỏ các công đoạn và thao tác lao động không cần thiết. Rà soát, đổi mới đồng bộ các khâu, các bước của quá trình sản xuất, không để xảy ra tình trạng "nút thắt cổ chai" do thiếu đồng bộ trong dây chuyền sản xuất gây nên. Phân công theo dõi kết quả tiết kiệm ở các bộ phận và có chế độ khen thưởng đối với các bộ phận tiết kiệm chi phí dưới định mức và xử phạt đối với bộ phận sử dụng vượt định mức.

Có thể khẳng định, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm một cách hiệu quả sẽ giúp các doanh nghiệp CNQP nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trọng tâm, qua đó, góp phần xây dựng ngành CNQP Việt Nam chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng và hiện đại trong thời kỳ mới.

Đại tá, TS. PHẠM VĂN QUỐC

Trường Đại học Nguyễn Huệ - Bộ Quốc phòng

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021.

2. Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 2002, tập 6, tr.485, 489.

3. Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 2002, tập 5, tr.637.

4. Bế Xuân Trường, Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng, tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại cho Quân đội nhân dân Việt Nam, Tạp chí Cộng sản điện tử, 15/9/2020.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại