Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đầu tư sản xuất vũ khí lục quân

12/1/2017 10:46:17 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 4

(CNQP&KT) - Đầu tư sản xuất vũ khí lục quân (VKLQ) thuộc lĩnh vực đầu tư công. Cơ chế, chính sách là yếu tố tác động quan trọng nhất đến hiệu quả đầu tư sản xuất VKLQ của Công nghiệp quốc phòng (CNQP) nước ta. Vì vậy, cần nghiên cứu đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất VKLQ, đáp ứng yêu cầu cung cấp đầy đủ, kịp thời VKLQ cho lực lượng vũ trang.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn xác định cần chủ động xây dựng tiềm lực quân sự. Tiềm lực quân sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố con người và vũ khí trang bị kỹ thuật (VKTBKT). Để đáp ứng yêu cầu cung cấp VKTBKT cho lực lượng vũ trang, việc đầu tư phát triển năng lực sản xuất VKLQ trong nước là điều tất yếu, bởi vì đầu tư năng lực sản xuất thay thế mua sắm VKTBKT là chiến lược phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước, góp phần tiết kiệm chi phí, nâng cao khả năng tự chủ trong sản xuất VKLQ của CNQP.

Thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 16/6/2003, Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 16/7/2011 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển CNQP, Bộ Quốc phòng đã triển khai đầu tư nhiều dự án sản xuất VKLQ. Thành công của các dự án này đã nâng cao khả năng sản xuất VKLQ của CNQP, góp phần giảm nhập khẩu, tiết kiệm ngân sách nhà nước (NSNN). Bên cạnh các thành tựu đạt được, quá trình đầu tư các dự án sản xuất VKLQ còn bộc lộ một số hạn chế, như: Chất lượng sản phẩm VKLQ thấp, chưa ổn định; năng lực tiếp nhận chuyển giao công nghệ (CGCN), năng lực tự chủ sản xuất chưa cao; chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, tổ chức thực hiện một số dự án còn thấp; hiệu quả sau đầu tư của một số dự án chưa vững chắc; khả năng phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của các dự án thấp. Những hạn chế, tồn tại trên là do cơ chế, chính sách quản lý đầu tư sản xuất VKLQ chưa khoa học, đồng bộ, chưa bám sát thực tiễn...

Từ góc độ kinh tế, các dự án sản xuất VKLQ thuộc chương trình CNQP là chương trình đầu tư công. Những năm qua, đầu tư công đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, phát triển KT-XH đất nước. Tuy vậy, hiệu quả của phần lớn các chương trình, dự án đầu tư công chưa cao. Hiện nay, đầu tư công được Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị theo dõi, giám sát quyết liệt; đòi hỏi sử dụng tiết kiệm NSNN, bảo đảm hiệu quả đầu tư cao. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý đầu tư công, hiệu quả đầu tư công.

Đầu tư sản xuất VKLQ thời gian tới phải giải quyết nhiều mâu thuẫn, thách thức; đòi hỏi nâng cao hiệu quả quốc phòng và hiệu quả KT-XH, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành CNQP và kinh tế đất nước. Vì vậy, cả trước mắt và lâu dài, cần nghiên cứu hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý đầu tư sản xuất VKLQ đồng bộ với hệ thống văn bản pháp quy mới ban hành, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu hướng chung của thế giới với mục tiêu quản lý chặt chẽ và phát huy cao nhất các nguồn lực trong đầu tư sản xuất VKLQ, bảo đảm hiệu quả đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất VKLQ của CNQP.

Vũ khí hỏa lực trang bị cho sư đoàn bộ binh do Tổng cục CNQP sản xuất.     

Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về cơ chế, chính sách quản lý đầu tư sản xuất VKLQ ở nước ta hiện nay, kết hợp với khảo cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, xin đề xuất các giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đầu tư sản xuất VKLQ ở nước ta như sau:

Một là, nghiên cứu điều chỉnh về cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư sản xuất VKLQ. Trong hoạt động quản lý đầu tư sản xuất VKLQ, có nhiều yếu tố được thiết lập chặt chẽ theo quy trình đầu tư, theo chức năng hoạt động của hệ thống tổ chức quản lý đầu tư sản xuất,… Do đó, cần phải điều chỉnh cơ chế quản lý nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi, phát huy cao nhất các nguồn lực tham gia đầu tư sản xuất VKLQ, bảo đảm chất lượng và hiệu quả đầu tư cao.

Tổng cục CNQP cần tham mưu đề xuất với Bộ Quốc phòng ban hành “Quy chế quản lý đầu tư sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật”. Quy chế cần quy định rõ nguyên tắc quản lý đầu tư sản xuất VKTBKT (nòng cốt là sản xuất VKLQ). Đồng thời, cần xác định rõ phương thức tiến hành, trách nhiệm, mối quan hệ của các cơ quan, đơn vị có liên quan trong từng nội dung của hoạt động đầu tư sản xuất VKTBKT: Quy hoạch, kế hoạch đầu tư; chuẩn bị đầu tư; tổ chức thực hiện dự án; đánh giá, giám sát dự án; nghiệm thu dự án; quản lý, khai thác sản phẩm dự án sau đầu tư…

Cần đổi mới về cơ chế trong xác định mục tiêu đầu tư nhằm phân loại, phân cấp các dự án sản xuất VKLQ ngay từ đầu theo các tiêu chí khoa học, sát thực tiễn. Đây là cơ sở để xác định quy mô, phạm vi dự án, từ đó có các chính sách, cơ chế cụ thể về vốn và hiệu quả đầu tư của dự án. Như vậy, mọi dự án sản xuất VKLQ đều phải đặt dưới sự quản lý và đánh giá thống nhất của hệ thống quản lý đầu tư sản xuất VKLQ, phù hợp với quy hoạch phát triển chung của ngành CNQP.

Bộ Quốc phòng cần sớm thay đổi cơ chế lựa chọn tư vấn lập dự án, tư vấn thiết kế kỹ thuật - tổng dự toán từ cơ chế giao nhiệm vụ sang phương thức đấu thầu chặt chẽ, khoa học, rộng rãi, song vẫn bảo đảm tính bí mật cao. Hợp đồng tư vấn phải xác định rõ mục tiêu, nội dung và chất lượng các kết quả cần đạt được; mốc thời gian hoàn thành; quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên (chủ đầu tư, tư vấn). Đồng thời, cần mở rộng phạm vi lựa chọn các tổ chức, đơn vị tư vấn lập dự án, lập thiết kế kỹ thuật - tổng dự toán, để lựa chọn tư vấn có năng lực, kinh nghiệm và uy tín cao, nhằm nâng cao chất lượng, tính khả thi của các dự án, thiết kế kỹ thuật - tổng dự toán.

Hai là, đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng vốn của các dự án sản xuất VKLQ. Do đặc thù của lĩnh vực đầu tư sản xuất VKLQ, trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư cho các dự án cần thực hiện tốt các nội dung sau:

Bảo đảm vững chắc nguồn vốn đầu tư cho các dự án sản xuất VKLQ. Bên cạnh đó, cần đơn giản hóa thủ tục quản lý, cấp phát vốn thực hiện dự án. Thực hiện giải ngân vốn cho các dự án đúng tiến độ, cho phép chủ đầu tư ứng vốn để thanh toán các phần khối lượng đã hoàn thành, triển khai các hạng mục tiếp theo, bảo đảm các dự án hoàn thành đúng tiến độ, không bị đội vốn, đạt được mục tiêu đặt ra.

Thực hiện đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho các dự án sản xuất VKLQ. Nguồn vốn đầu tư các dự án sản xuất VKLQ được xác định từ NSNN là chính. Tuy vậy, khi cân đối NSNN khó khăn, cần đa dạng hóa các nguồn vốn bảo đảm để dự án được triển khai thực hiện đúng tiến độ, đạt hiệu quả cao. Trước mắt, cần mở rộng điều kiện để việc huy động vốn từ chuyển đổi đất quốc phòng được thực hiện thuận lợi, hiệu quả hơn. Về lâu dài, Bộ Quốc phòng cần có cơ chế cụ thể để hỗ trợ đầu tư cho sản xuất VKLQ; tạo động lực cho các cơ sở CNQP chủ động huy động, ứng, vay vốn để bảo đảm tiến độ thực hiện dự án. Đồng thời, Nhà nước cần khẩn trương nghiên cứu, ban hành các văn bản pháp quy tạo môi trường thuận lợi, hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp dân sinh vào các dự án có tính lưỡng dụng cao.

Ba là, xây dựng và ban hành cơ chế đặc thù trong quản lý đầu tư và huy động các nguồn lực triển khai thực hiện các dự án sản xuất VKLQ.

Cần nghiên cứu rút gọn, đơn giản hóa một số nội dung về thủ tục đầu tư để đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị và triển khai dự án, như: Thực hiện song song các bước lập, thẩm định, phê duyệt đối với các nội dung lập dự án, kế hoạch đấu thầu, thiết kế kỹ thuật - tổng dự toán. Điều này giúp cho chủ đầu tư nắm chắc được dự án ngay trước khi triển khai thực hiện, tạo thuận lợi cho quá trình quản lý, tổ chức thực hiện. Đồng thời, giúp cho cơ quan thẩm tra, thẩm định có thể đánh giá toàn diện, đồng bộ và sâu sắc hơn đối với dự án, góp phần nâng cao hiệu quả dự án.

Đối với các dự án nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, cần tạo điều kiện để chủ đầu tư và đối tác sớm gặp gỡ, cùng nghiên cứu triển khai hợp đồng ngoại thương và hỗ trợ chủ đầu tư lập dự án có chất lượng nhất, cho phép triển khai trước các hạng mục cần thiết ngay sau khi ký hợp đồng.

Thực hiện nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất, giảm khâu trung gian, tăng quyền hạn gắn với trách nhiệm của chủ đầu tư trong triển khai thực hiện dự án. Bộ Quốc phòng cần hoàn thiện hệ thống quản lý đầu tư sản xuất VKLQ để giảm bớt các khâu quản lý trung gian, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục đầu tư, tạo thuận lợi để dự án được thực hiện và hoàn thành đúng tiến độ, chất lượng tốt. Đồng thời, cần trao quyền tự chủ nhiều hơn cho những chủ đầu tư có năng lực, kinh nghiệm; có quy định cụ thể về khen thưởng đối với các dự án chất lượng, hiệu quả cao; có chế tài kỷ luật, xử phạt đối với các chủ đầu tư để xảy ra thất thoát, lãng phí, chất lượng dự án thấp.

Bốn là, đổi mới chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư dự án sản xuất VKLQ. Cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư công, nhằm điều chỉnh toàn diện từ khâu xác định chủ trương đầu tư, lập, thẩm định, phê duyệt dự án cho đến tổ chức thực hiện, nghiệm thu, bàn giao, khai thác… Quy định thống nhất nội dung, quy trình, thủ tục phối hợp, mối quan hệ giữa các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng và các bộ, ngành, các tổ chức có liên quan cũng như chủ đầu tư trong hoạt động tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động đầu tư sản xuất VKLQ. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý đầu tư, quản lý chuyên ngành trong kiểm soát, quản lý khối lượng, chất lượng và chi phí ở tất cả các khâu của quá trình đầu tư.

Bên cạnh đó, cần xây dựng và ban hành chính sách ưu đãi về thu nhập, điều kiện làm việc để thu hút, giữ gìn nguồn nhân lực chất lượng cao tham gia quản lý dự án sản xuất VKLQ. Trước hết, cần đổi mới, bổ sung chế độ phụ cấp đối với các đối tượng thuộc biên chế Ban quản lý dự án. Ngoài ra, cần thực hiện chế độ thù lao hấp dẫn cho từng nhóm chuyên gia tham gia các hoạt động đầu tư dự án. Việc ưu tiên đãi ngộ, quyền lợi cần gắn kết với nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ; khen thưởng, kỷ luật công minh, kịp thời.

Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đầu tư sản xuất VKLQ là yêu cầu cấp thiết đặt ra trong tình hình CNQP nước ta ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng; hoạt động đầu tư công và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước được Đảng, Nhà nước quan tâm, chú trọng, đòi hỏi hiệu quả ngày càng cao. Những nội dung đề xuất về đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đầu tư sản xuất VKLQ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, tác động tích cực, toàn diện đến hiệu quả đầu tư sản xuất VKLQ. Nghiên cứu, vận dụng các giải pháp trên vào thực tiễn sẽ góp phần cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng, đơn giản hóa thủ tục đầu tư, tạo thuận lợi cho triển khai thực hiện các dự án sản xuất VKLQ. Đồng thời, giúp cho việc quản lý chặt chẽ và phát huy cao nhất các nguồn lực trong đầu tư sản xuất VKLQ, bảo đảm hiệu quả quốc phòng và hiệu quả KT-XH cả trước mắt và lâu dài.

Thiếu tá, ThS. Trương Đức Minh

Học viện Kỹ thuật quân sự

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại