Vấn đề sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm quốc phòng

12/24/2018 4:20:06 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 25

CNQP&KT - Trong thời kỳ “thế giới phẳng” như hiện nay, sở hữu trí tuệ ngày càng được các doanh nghiệp quan tâm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và thương mại quốc tế.Sản phẩm quân sự là một loại hàng hóa đặc biệt, do đó vấn đề sở hữu trí tuệ cũng là vấn đề cần đặc biệt lưu tâm trong thực thi các giao dịch thương mại quốc tế.

ĐÔI NÉT VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Sở hữu trí tuệ (SHTT), hay còn gọi là tài sản trí tuệ, là những sản phẩm sáng tạo của bộ óc con người. Đó có thể là những tác phẩm văn học, âm nhạc, kiến trúc, phần mềm máy tính, phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp... Quyền SHTT là các quyền đối với những sản phẩm sáng tạo nói trên.

SHTT đã được khẳng định là một công cụ đắc lực để phát triển khoa học-công nghệ và kinh tế, liên quan mật thiết đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Bảo vệ quyền SHTT khuyến khích sự sáng tạo, thúc đẩy những nỗ lực cống hiến của các cá nhân vào hoạt động nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật, tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội. Bảo vệ quyền SHTT cũng góp phần giảm thiểu tổn thất cho các nhà sản xuất, kinh doanh và thúc đẩy họ phát triển sản xuất, kinh doanh hợp pháp.Ngoài ra, bảo vệ quyền SHTT giúp cho người tiêu dùng có cơ hội lựa chọn và sử dụng các hàng hóa, dịch vụ chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng. Bảo vệ quyền SHTT hiệu quả sẽ tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hút chuyển giao công nghệ và đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, với sự luân chuyển mạnh mẽ, liên tục giữa các tài sản hữu hình cũng như tài sản vô hình giữa các quốc gia, bảo vệ quyền SHTT còn góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia.

Bảo vệ quyền SHTT còn có ý nghĩa chính trị, đó là điều kiện tiên quyết, nghĩa vụ bắt buộc đối với các quốc gia là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).Nhiều nước, đặc biệt là những nước phát triển, đã coi việc bảo hộ quyền SHTT là điều kiện không thể thiếu để thiết lập các quan hệ thương mại.Việc thực hiện không đầy đủ về bảo hộ quyền SHTT có thể tạo ra sự căng thẳng về thương mại.

Tóm lại, SHTT là phương thức bảo hộ tài sản trí tuệ - tài sản vô hình, một tài sản có giá trị, dễ bị xâm phạm và khó tự bảo vệ.

Ngay từ năm 1883, 14 nước trên thế giới đã ký Công ước Paris về sở hữu công nghiệp với việc thành lập Văn phòng quốc tế về quản lý quyền đối với sáng chế (viết tắt theo tiếng Pháp là BIRPI). Năm 1970, thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, viết tắt là WIPO.Việt Nam là thành viên của WIPO từ ngày 2/7/1976.Hiện, WIPO đang quản lý các công ước quốc tế về SHTT.

Nghiên cứu, sản xuất kính nhìn đêm trên thiết bị hiện đại tại Nhà máy Z181. Ảnh: Hương Lê

PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ CỦA VIỆT NAM

Pháp luật về SHTT ở Việt Nam ra đời muộn hơn các nước khác trên thế giới.Năm 1958, Chính phủ ban hành Thể lệ về thương phẩm và thương hiệu.Năm 1976, Việt Nam gia nhập vào Tổ chức SHTT thế giới (WIPO).

Ngày 14/12/1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định 197/HĐBT quy định “Điều lệ về nhãn hiệu hàng hóa”. Sau đó có một số văn bản về SHTT đã ra đời, như: Điều lệ Kiểu dáng công nghiệp (ngày 13/5/1988); Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (ngày 11/2/1989); Nghị định 84/HĐBT (ngày 20/3/1990) hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Bảo hộ sở hữu công nghiệp; Điều lệ Li - xăng (ngày 28/12/1984); Nghị định 214/HĐBT về quyền tác giả (năm 1988); Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả (ngày 10/2/1984). Ngày 23/11/1995, Quốc hội thông qua Bộ luật Dân sự, trong đó có Chương I, Phần 6 nêu về quyền tác giả.

Ngày 29/11/2005, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XI, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam số 50/2005/QH11 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2006. Sau đó, Luật số 36/2009/QH12 được Quốc hội Khóa XII thông qua ngày 19/6/2009, để sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2010.

Các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực SHTT bao gồm: Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các cấp. Trong đó, Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm chính trước Chính phủ về thực hiện quản lý nhà nước về SHTT và thực hiện quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp.

QUY ĐỊNH VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI SẢN PHẨM QUỐC PHÒNG

SHTT đối với sản phẩm quốc phòng (SPQP) đương nhiên phải thực hiện theo pháp luật của Việt Nam và các điều ước quốc tế về SHTT mà Việt Nam tham gia. Ngoài ra, SHTT đối với SPQP có đặc thù riêng.

Các văn bản hiện hành về SHTT đối với SPQP, gồm: Các hiệp định thương mại, điều ước quốc tế Việt Nam ký kết với các nước, nhóm nước, các tổ chức quốc tế (trong đó, có một số hiệp ước Việt Nam ký kết với nước ngoài liên quan đến SHTT đối với SPQP); Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2009 và có hiệu lực thi hành từ 1/1/2010; Luật Khoa học và công nghệ được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014; Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền SHTT và quản lý nhà nước về SHTT; Nghị định số 08/NĐ-CP ngày 27/10/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học và công nghệ; Thông tư số 182/2014/TT-BQP ngày 22/12/2014 của Bộ Quốc phòng quy định về tên gọi, ký hiệu, mã hiệu SPQP do Việt Nam sản xuất, cải tiến; Thông tư số 94/2016/TT-BQP ngày 26/6/2016 của Bộ Quốc phòng ban hành Điều lệ Công tác Khoa học và công nghệ trong Bộ Quốc phòng, trong đó có nêu quyền sở hữu, quyền tác giả, giao quyền sở hữu và quyền sử dụng kết quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Thông tư số 167/2017/TT-BQP ngày 17/7/2017 của Bộ Quốc phòng quy định thu thập, đăng ký, lưu giữ và công bố thông tin về nhiệm vụ khoa học và công nghệ trong Bộ Quốc phòng, trong đó có quy định về cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; các hợp đồng ký kết với các đối tác nước ngoài về chuyển giao công nghệ, trong đó có các điều khoản về SHTT...

Qua nghiên cứu các văn bản hiện hành về SHTT, có thể đưa ra một số nhận xét về tình hình thực thi quyền SHTT đối với SPQP như sau:

- Đối với việc nhập khẩu SPQP đã có đầy đủ các văn bản quy định và hiện chúng ta đang duy trì thực hiện tốt.

- Với việc nghiên cứu, sản xuất SPQP phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, SPQP chưa thực thi đầy đủ quyền SHTT. Trong Thông tư 48/2016/TT-BQP của Bộ Quốc phòng về quản lý thiết kế SPQP, các tác giả nghiên cứu thiết kế SPQP được Bộ Quốc phòng ủy quyền cho Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (CNQP) cấp Giấy chứng nhận thiết kế.

Do chưa có văn bản quy định về chi trả bản quyền thiết kế SPQP nên tác giả nghiên cứu thiết kế SPQP chưa nhận được quyền lợi về vật chất. Theo đề nghị của Tổng cục CNQP, Bộ Quốc phòng đã giao cho Cục Khoa học Quân sự chủ trì hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật để quy định các nội dung đặc thù, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Bộ Quốc phòng.

MỘT SỐ NỘI DUNG CẦN LƯU Ý TRONG THỰC THI SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI SẢN PHẨM QUỐC PHÒNG

Thực thi SHTT đối với SPQP là nội dung mới đối với Việt Nam, các văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Quốc phòng đang ở giai đoạn hoàn thiện. Để tránh vi phạm quyền SHTT khi thực hiện xuất, nhập khẩu vũ khí - trang bị kỹ thuật cần lưu ý thực hiện một số nội dung sau:

Một là, trong xuất, nhập khẩu SPQP cần đặc biệt lưu ý vấn đề quyền SHTT. Trong xuất khẩu, tránh vi phạm quyền SHTT của nước ngoài. Trong nhập khẩu, nhất là nhập khẩu công nghệ cần đàm phán kỹ các điều khoản hợp đồng liên quan đến quyền SHTT. Thông thường, các đối tác đặt ra yêu cầu cao về SHTT, như: Xuất khẩu sản phẩm cần có sự cho phép của đối tác chuyển giao công nghệ; không được sử dụng công nghệ nhận chuyển giao để phát triển sản phẩm mới; không được cải tiến, điều chỉnh thiết kế sản phẩm được chuyển giao công nghệ, kể cả cải tiến nâng cao tính năng chiến - kỹ thuật của sản phẩm.

Cố gắng phối hợp với đối tác, hoặc thông qua đối tác chuyển giao công nghệ để xuất khẩu sản phẩm sang nước thứ ba. Đàm phán với đối tác để không hạn chế trong việc cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm và phát huy công nghệ được đầu tư để phát triển sản phẩm mới.

Hai là, trong nghiên cứu thiết kế, chế tạo SPQP cần lưu ý việc đăng ký kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ tại Cục Khoa học Quân sự và đăng ký chứng nhận thiết kế SPQP tại Tổng cục CNQP (theo Thông tư 48/2016/TT-BQP của Bộ Quốc phòng). Trong nghiên cứu thiết kế SPQP mới, cần nghiên cứu thiết kế tạo ra sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam, không vi phạm quyền SHTT của nước ngoài để đủ điều kiện xuất khẩu.

SHTT đối với SPQP là vấn đề phức tạp, ngày càng có vai trò quan trọng trong nghiên cứu thiết kế chế tạo và xuất, nhập khẩu SPQP. Để có cơ sở chuyển đổi mô hình hoạt động của các viện nghiên cứu trong Quân đội sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cũng như để có thể xuất khẩu được SPQP, vấn đề thực thi đầy đủ quyền SHTT đối với SPQP là cần thiết và cấp bách trong thời gian tới.

Thiếu tướng, TS.ĐÀO XUÂN NGHIỆP

Cục trưởng Cục Quản lý công nghệ, Tổng cục CNQP

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại