Quốc gia này cũng đặt mục tiêu đến năm 2024 trở thành nước dẫn đầu về công nghiệp quốc phòng (CNQP) ở khu vực Đông Nam Á.
RA ĐỜI SỚM, PHÁT TRIỂN CHẬM
So với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, ngành sản xuất vũ khí Thái Lan hình thành sớm, ngay từ những năm đầu của thế kỷ XIX, nhưng phải đến thập niên 1970 mới được chú trọng đầu tư phát triển. Đến cuối những năm 1960, các sản phẩm CNQP Thái Lan chủ yếu phục vụ nhu cầu người dân và chỉ một phần nhỏ, gồm quân trang, ắc-quy, thiết bị điện tử, dược phẩm và hóa chất... dành cho quân đội. Thành tựu nổi bật của CNQP Thái Lan giai đoạn này là nghiên cứu, phát triển thành công một số loại tên lửa và đóng tàu tuần tiễu gần bờ lớp TT.91. Cuối năm 1976, Bộ Quốc phòng Thái Lan quyết định đầu tư hơn 200 triệu USD cho CNQP và “cú huých” này mang đến những kết quả đáng kể: Chế tạo thành công đạn cỡ 5,56mm và 7,62mm; vận hành các cơ sở sửa chữa và hiện đại hóa xe quân sự, động cơ máy bay; bảo dưỡng tàu chiến và các loại vũ khí, trang bị hải quân... Tuy nhiên, kết quả này hầu hết nhờ vào sự hỗ trợ kỹ thuật của Mỹ.
Tháng 12/1997, Thủ tướng Thái Lan Criêng-sặc Chô-ma-nan công bố kế hoạch xây dựng hàng loạt nhà máy CNQP mới, hướng đến mục tiêu đủ năng lực đáp ứng nhu cầu đạn dược và vũ khí hạng nhẹ phục vụ an ninh nội địa. Nhà máy đầu tiên được xây dựng là Thai Interarms, gồm 4 phân xưởng chế tạo các loại vũ khí hạng nhẹ, đạn dược, thuốc súng và các chất nổ khác. Tiếp đến là một nhà máy liên doanh giữa Chính phủ Thái Lan với Công ty Winchester của Mỹ có thể sản xuất 1 triệu tấn đạn/năm, gồm cả rốc-két. Cùng với đó, để tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu của hải quân, Chính phủ Thái Lan quyết định mở rộng các cơ sở sản xuất vũ khí, trang bị với sự hỗ trợ của Mỹ, Italia, Nhật Bản. Với những nỗ lực này, Thái Lan đã đóng mới được một số tàu chiến phục vụ lực lượng Hải quân Hoàng gia, tiêu biểu là lô 6 tàu tuần tiễu ven bờ và 1 tàu đổ bộ. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 đã tác động tiêu cực đến ngành CNQP Thái Lan khi ngân sách quốc phòng bị cắt giảm.

Binh sĩ Quân đội Hoàng gia Thái Lan. Ảnh: Internet
Dưới thời Thủ tướng Thặc-xỉn Chin-na-vắt (2001-2006), một số lĩnh vực CNQP đã được mở rộng và phát triển cùng với việc hiện đại hóa chu trình sản xuất - mua bán, tư nhân hóa một loạt nhà máy sản xuất hàng quân dụng. Tuy nhiên, do ngân sách nghiên cứu và phát triển dành cho Quân đội Hoàng gia được quy định ở mức dưới 1%, nên việc nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất vũ khí, trang bị rất hạn chế.
Bước sang thế kỷ XXI, Quân đội Hoàng gia Thái Lan chủ trương ưu tiên phát triển một số lĩnh vực mũi nhọn, như: hệ thống phòng thủ đường không; máy bay trinh sát không người lái; đóng mới tàu tuần tiễu xa bờ (OPV)... Đầu năm 2009, Thái Lan thành lập Viện Công nghệ quốc phòng, đánh dấu cuộc cải cách quan trọng đối với ngành CNQP, hướng tới mục tiêu đủ khả năng tự cung cấp liên tục và bền vững vũ khí, trang bị cho Quân đội Hoàng gia. Theo đó, Viện chịu trách nhiệm hoạch định lộ trình, xây dựng kế hoạch và dự trù kinh phí thực hiện các dự án nghiên cứu, chế tạo của Quân đội. Khi ngân sách được phân bổ, Viện sẽ nghiên cứu, chế tạo, thử nghiệm hệ thống mẫu; sau đó tiến hành huấn luyện, chuyển giao tài liệu hướng dẫn cho khách hàng là các quân, binh chủng sử dụng và tiếp tục cải tiến tính năng, nâng cấp các loại vũ khí, trang bị này.
MỘT SỐ THÀNH TỰU NỔI BẬT
Tháng 9/2006, sau cuộc đảo chính lật đổ Chính phủ của Thủ tướng Thặc-xỉn, thế lực của Quân đội Hoàng gia tăng mạnh. Nhờ đó, chi tiêu dành cho quốc phòng, trong đó có CNQP liên tục tăng cao. Hiện nay, Thái Lan có 108 nhà máy CNQP, trong đó có 48 nhà máy trực thuộc Bộ Quốc phòng và 60 nhà máy do tư nhân quản lý (chủ yếu sửa chữa, cải tiến nâng cấp vũ khí, trang bị và sản xuất thuốc nổ...). Giai đoạn 2010-2015, vị thế, uy tín của ngành CNQP Thái Lan được cải thiện đáng kể nhờ một số thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực, đó là:
Tên lửa và vũ khí dẫn đường: Năm 2011, Thái Lan đã nghiên cứu và chế tạo thành công tên lửa DTI-1 tầm bắn 180km và hiện đã được bàn giao cho Quân đội Hoàng gia. Tiếp đó, DTI-1 được nâng cấp thành tên lửa có hệ thống dẫn đường DTI-1G với tầm bắn 150km. Năm 2014, Thái Lan phát triển loại tên lửa này thành pháo phản lực 122mm, tầm bắn 40km. Đáng chú ý, Thái Lan đã xây dựng Trung tâm nghiên cứu, phát triển tên lửa và vũ khí dẫn đường đầu tiên, hiện đại nhất Đông Nam Á tại tỉnh Na-khon Xa-vẳn và Lốp-bu-ri. Đầu năm 2015, Thái Lan khởi công xây dựng khu tổ hợp CNQP, với diện tích khoảng 1.600ha thuộc tỉnh Can-cha-na-bu-ri.

Mô hình UAV Sky Scout-X do Quân đội Thái Lan nghiên cứu, chế tạo trưng bày tại Triển lãm Defense Security 2019 tại Bangkok (Thái Lan). Ảnh: Internet
Thiết bị bay không người lái (UAV): Đây là một trong những chương trình trọng điểm của Quân đội Thái Lan, trọng tâm là nghiên cứu phát triển các loại UAV cánh cố định, có tầm hoạt động từ 50 - 150km; UAV cất cánh và hạ cánh theo phương thẳng đứng (VTOL, UAV), có tầm hoạt động 50km; UAV đa động cơ; UAV loại nhỏ có tầm hoạt động 10km... Thái Lan cũng thành lập Trung tâm tiêu chuẩn hệ thống UAV, nhằm thúc đẩy nghiên cứu, chế tạo UAV.
Các loại xe cơ giới quân sự: Các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Quốc phòng Thái Lan hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp tư nhân trong nước nghiên cứu và nâng cấp thành công xe bọc thép bánh lốp 8x8; các mô hình học cụ quân sự; xây dựng các thao trường bãi tập sát với thực tế chiến đấu.

Xe thiết giáp chở quân lội nước 8x8 (AAPC). Ảnh: Internet
Thông tin quân sự: Nghiên cứu, phát triển và nâng cấp một số thiết bị thông tin quân sự, như: Hệ thống liên lạc có hiển thị hình ảnh hoạt động chung (COP) được chuyển giao cho Quân đội Hoàng gia năm 2013; hệ thống thông tin liên lạc trung tâm và các trang, thiết bị kỹ thuật trinh sát như trạm kiểm soát cơ động thông minh; hệ thống theo dõi giám sát; hệ thống phân tích dữ liệu thông tin...

Hệ thống tên lửa đa nòng DTI-1G. Ảnh: Internet
MỤC TIÊU HƯỚNG TỚI
Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng theo đánh giá, ngành CNQP Thái Lan hiện vẫn đang nằm trong nhóm nước thế giới thứ ba, bởi quy mô sản xuất nhỏ, chỉ mới có khả năng sản xuất và sửa chữa một số loại vũ khí hạng nhẹ mang tính hỗ trợ cho tiến trình hiện đại hóa quân đội. Hiện, Thái Lan vẫn phải nhập khẩu hầu hết các loại vũ khí công nghệ cao và hiện đại. Nhìn chung, các doanh nghiệp quốc phòng Thái Lan chưa đủ khả năng sản xuất các vũ khí, trang bị công nghệ cao để cạnh tranh trên thị trường vũ khí thế giới. CNQP gặp một số hạn chế, đó là: ngân sách quốc phòng thấp, các cơ sở CNQP do Bộ Quốc phòng quản lý chủ yếu phục vụ nhu cầu Quân đội Hoàng gia, ít coi trọng tính lưỡng dụng và thương mại hóa sản phẩm; chưa khuyến khích và phát huy được tiềm lực của các doanh nghiệp tư nhân trong sản xuất quốc phòng do những vướng mắc về cơ chế, chính sách; chưa khai thác hiệu quả việc mua sắm vũ khí, trang bị nước ngoài gắn với hợp tác chuyển giao công nghệ sản xuất...
Nhằm góp phần tăng tốc quá trình hiện đại hóa, phát triển ngành CNQP, Thái Lan công bố Chiến lược phát triển công nghệ quốc phòng (2015 - 2024), với mục tiêu đưa Thái Lan trở thành quốc gia dẫn đầu khu vực về CNQP. Theo đó, đến năm 2024, ngành CNQP Thái Lan phải hoàn thành 6 nhiệm vụ cơ bản, gồm: Mở rộng quy mô phát triển của chương trình trang bị cho Quân đội Hoàng gia; tích cực nghiên cứu, đề xuất các chương trình sản xuất hàng quốc phòng; trở thành trung tâm khoa học và công nghệ quân sự của Quân đội Hoàng gia và quốc gia; tăng cường liên kết, khuyến khích hợp tác giữa các cơ quan, ban, ngành trong và ngoài quân đội, cả nhà nước và tư nhân; hỗ trợ đắc lực cho nhiệm vụ huấn luyện, nghiên cứu và phát triển nhân lực về công nghệ đạt chuẩn quốc tế; nghiên cứu, ứng dụng và lưu giữ công nghệ quân sự quốc gia Thái Lan.
Quá trình thực hiện tổ chức thành 3 giai đoạn: Giai đoạn 2015-2017, tập trung phát triển công nghệ và sản xuất tên lửa, vũ khí dẫn đường; công nghệ thuốc nổ, đầu đạn; công nghệ điều khiển thiết bị tự động; công nghệ cảm ứng, mô phỏng hoạt động cơ động và điều khiển đội hình thiết bị không người lái; hệ thống dẫn đường, điều khiển bắn, mô phỏng chung. Giai đoạn 2017-2021, nâng cấp hệ thống điều khiển chỉ huy, chỉ đạo tác chiến, thông tin liên lạc, mạng và kết nối dữ liệu chiến thuật, mật mã hóa tài liệu quân sự; trang, thiết bị phát hiện, hỗ trợ chiến thuật, vũ khí đặc biệt; nghiên cứu và tạo mẫu bộ thiết bị chống vũ khí hủy diệt sinh học, hóa học và vũ khí hạt nhân. Giai đoạn 2021-2024, làm chủ công nghệ và chuyển giao sản phẩm theo hợp đồng các sản phẩm CNQP; đẩy mạnh chương trình đào tạo nhân lực chất lượng cao cho CNQP; mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác công nghệ quân sự với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Có thể thấy, Thái Lan đang thể hiện quyết tâm trở thành quốc gia dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về công nghệ quân sự vào năm 2024. Tuy nhiên, cách thức triển khai chiến lược, nguồn nhân lực và ngân sách cho phát triển đang là những thách thức đối với sự phát triển của CNQP Thái Lan hiện nay.
ĐOÀN HÙNG