KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC
*Trung Quốc
Trong quá trình phát triển CNQP lưỡng dụng, Trung Quốc cho rằng tiềm lực vật chất và công nghệ của CNQP có vai trò đột phá khi hướng vào mục tiêu kinh tế, bởi vì “thiết bị công nghiệp quốc phòng tốt, lực lượng kỹ thuật hùng hậu phải được sử dụng đầy đủ, tham gia vào việc xây dựng trong cả nước, ra sức phát triển sản xuất dân dụng. Làm như vậy có trăm cái lợi mà không có cái hại nào”1. Vì vậy, Trung Quốc đã mở rộng số lượng và quy mô các doanh nghiệp quốc phòng có khả năng sản xuất hàng dân dụng, chuyển hướng từ sản xuất dàn hàng ngang sang tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn có tính đột phá. Cùng với đó, từng bước nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp quốc phòng tham gia sản xuất hàng dân dụng bằng những bước đi phù hợp.Trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, Trung Quốc hướng vào nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp CNQP, tận dụng tối đa công nghệ cũng như dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp quốc phòng để phát triển CNQP lưỡng dụng. Trung Quốc cũng khuyến khích chuyển giao công nghệ cao từ CNQP sang công nghiệp dân dụng. Theo đó, quốc gia này đã đưa công nghệ thuộc bốn lĩnh vực mũi nhọn của CNQP (gồm vũ trụ, hàng không, điện tử, hạt nhân) sang sản xuất hàng dân dụng. Trung Quốc còn thực hiện chủ trương đưa một số doanh nghiệp quốc phòng ra khỏi Bộ Quốc phòng, hòa nhập với công nghiệp dân dụng thông qua việc “dân sự hóa”Cơ quan quản lý các tổ hợp công nghiệp quân sự, nhằm tăng cường năng lực sản xuất và phát triển khả năng hợp tác quốc tế.
Trung Quốc xây dựng hệ thống radar lưỡng dụng tầm xa nhất thế giới. Ảnh: Internet
Đặc biệt, Trung Quốc tích cực đổi mới cơ chế quản lý theo hướng cho phép một số doanh nghiệp CNQP sản xuất các sản phẩm dân sự. Nhờ đó, khai thác một phần năng lực sản xuất dư thừa của các doanh nghiệp này phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước, giảm thiểu hao mòn của hệ thống máy móc, công nghệ, giúp các doanh nghiệp CNQP có điều kiện tái sản xuất mở rộng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này phải đáp ứng được các yêu cầu mà nhà nước đề ra, đảm bảo không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ quốc phòng cũng như tính an toàn, bảo mật. Ủy ban Khoa học - Công nghệ và CNQP chịu trách nhiệm xem xét, quyết định việc cấp phép sản xuất cho các doanh nghiệp này.
*Indonesia
Là quốc gia quần đảo lớn nhất thế giới, Indonesia nằm ở vị trí chiến lược trên các tuyến hàng hải quốc tế. Việc xây dựng và phát triển CNQP lưỡng dụng để bảo đảm an ninh, an toàn cũng như chủ động đối phó với các nguy cơ an ninh phi truyền thống trở thành nhiệm vụ hàng đầu đối với lực lượng vũ trang nước này. Điểm nhấn trong quá trình phát triển CNQP lưỡng dụng ở Indonesia là Chính phủ gia tăng ngân sách quốc phòng. Theo thống kê của Viện Nghiên cứu Hòa bình quốc tế Stockholm, năm 2016, mức chi tiêu quốc phòng của Indonesia là 8 tỷ USD (khoảng 1% GDP). Năm 2018, Tổng thống Indonesia Joko Widodo tuyên bố trong giai đoạn tiếp theo, Indonesia sẽ tăng ngân sách quốc phòng lên mức tương đương 1,5% GDP, nhằm đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm lưỡng dụng, giảm dần sự lệ thuộc vào nước ngoài. Mặt khác, góp phần thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ trong nước, tạo việc làm và cân bằng cán cân xuất, nhập khẩu, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tiêm kích phản lực K-FX do Indonesia và Hàn Quốc hợp tác sản xuất. Ảnh: Internet
Indonesia cũng nỗ lực xây dựng và phát triển CNQP lưỡng dụng theo hướng tự chủ. Năm 2010, Chính phủ Indonesia thành lập cơ quan điều phối đề ra kế hoạch tổng thể trong phát triển CNQP. Năm 2012, Indonesia ban hành đạo luật hỗ trợ, nhằm thúc đẩy phát triển CNQP lưỡng dụng theo hướng tự chủ. Indonesia không xây dựng và phát triển CNQP biệt lập, mà kết hợp chặt chẽ với công nghiệp dân dụng thành một tổng thể hài hòa. Trong đó, CNQP có trách nhiệm tạo ra công nghệ mũi nhọn, sản xuất sản phẩm có tính lưỡng dụng cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Indonesia chủ trương CNQP dành từ 70-80% năng lực cho sản xuất dân dụng và duy trình năng lực sản xuất quân sự khi có chiến tranh xảy ra2.
*Nga
CNQP Nga ngày nay được thừa hưởng nhiều thành tựu từ thời Liên Xô trước đây. Nga đã đầu tư các dây chuyền sản xuất có thể linh hoạt chuyển hóa để vừa phục vụ nhu cầu kinh tế, vừa có khả năng đáp ứng nhanh các nhu cầu quốc phòng. Quá trình phát triển CNQP lưỡng dụng, Nga duy trì số lượng doanh nghiệp CNQP với ưu thế lớn về công nghệ cao, tận dụng năng lực của các tổ hợp CNQP để sản xuất các sản phẩm dân sự. Hiện tại, với khoảng 1.200 xí nghiệp và tổ chức CNQP bố trí ở 70 khu vực trên toàn lãnh thổ, tổ hợp CNQP Nga đã và đang chiếm ưu thế lớn trong tổng số sản phẩm công nghệ cao của quốc gia: chiếm 100% sản phẩm công nghệ cao thuộc các lĩnh vực hàng không, vũ trụ, quang học, điện tử, vật liệu nổ công nghiệp; 90% sản phẩm công nghệ cao trong lĩnh vực đóng tàu, thiết bị điện tử; 70% trong lĩnh vực thông tin liên lạc3. Đây là bước tiến quan trọng trong chính sách phát triển tổ hợp CNQP Nga sau Chiến tranh Lạnh, góp phần quan trọng đưa nước này trở lại vị thế cường quốc quân sự trên thế giới.
Nga cũng hết sức chú trọng phát triển nguồn nhân lực CNQP, cho phép các cơ sở đào tạo nhân lực của quân đội tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Ngoài ra, Nga còn cấp đất và nhà ở cho các cán bộ, công nhân viên ngành CNQP. Đồng thời, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện cơ cấu các cơ sở sản xuất quốc phòng có tính chất lưỡng dụng. Trong Chiến tranh Lạnh, do chạy đua vũ trang, cơ cấu tổ chức, quản lý khu vực CNQP tương đối độc lập so với khu vực sản xuất dân sự. Ngành CNQP trực thuộc Chính phủ, Nhà nước trực tiếp điều hành sản xuất. Các kế hoạch sản xuất quốc phòng đều được giao dưới dạng pháp lệnh của bộ chủ quản. Sau thời kỳ này, Nga chuyển dần mô hình sang điều hành quản lý theo cơ chế thị trường, cung cấp và mở rộng thị trường xuất khẩu vũ khí và các sản phẩm phục vụ dân sự.
BÀI HỌC RÚT RA
Từ nghiên cứu phương thức phát triển CNQP lưỡng dụng ở một số nước trong khu vực và trên thế giới, rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam như sau:
Một là, đổi mới cơ chế, chính sách phù hợp để các doanh nghiệp quốc phòng tham gia sản xuất hàng hóa, dịch vụ thông thường.
Đổi mới cơ chế quản lý CNQP để kết hợp quốc phòng với kinh tế vừa là mục tiêu vừa là yêu cầu của nền CNQP hiện đại. Dù xây dựng và phát triển theo mô hình nào, CNQP vẫn là một thành phần đặc biệt quan trọng trong tiềm lực kinh tế quốc gia, có chức năng, nhiệm vụ kết hợp quốc phòng với kinh tế. Do đó, đối với phát triển CNQP lưỡng dụng ở nước ta hiện nay, điều cần thiết là phải đổi mới cơ chế, chính sách phù hợp để các doanh nghiệp quốc phòng ngày càng tham gia sâu vào sản xuất hàng hóa, dịch vụ thông thường.
Đối với phát triển CNQP lưỡng dụng ở nước ta, điều cần thiết là phải đổi mới cơ chế, chính sách phù hợp để các doanh nghiệp quốc phòng ngày càng tham gia sâu vào sản xuất hàng hóa, dịch vụ thông thường.
Hai là, đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm trong các doanh nghiệp quốc phòng.
Trong bối cảnh nhu cầu các sản phẩm quốc phòng trong nước giảm, thị trường quân sự bị thu hẹp đáng kể, nền CNQP nhiều nước lâm vào tình trạng dư thừa công suất. Để giải quyết vấn đề trên, các quốc gia đều coi việc tăng cường kết hợp quân sự với dân sự, ưu tiên phát triển kỹ thuật lưỡng dụng là một nội dung quan trọng trong cải cách CNQP đất nước. Vì thế, xu hướng phát triển CNQP của nhiều nước hiện nay là đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm, lấy ưu thế kỹ thuật để đẩy mạnh phát triển các sản phẩm dân dụng. Đồng thời, huy động năng lực tổng hợp của các cơ sở CNQP nòng cốt và kết hợp chặt chẽ với sức mạnh của công nghiệp dân dụng, tiến hành điều chỉnh cơ cấu sản phẩm của CNQP sang vừa sản xuất hàng quân sự, vừa sản xuất, kinh doanh nhiều mặt hàng dân dụng.
Thi công kết cấu chân đế giàn khoan siêu trường, siêu trọng ở Tổng công ty Ba Son (thuộc Tổng cục CNQP). Ảnh: CTV
Ba là, đẩy mạnh phát triển, ứng dụng các công nghệ có tính chất lưỡng dụng.
Việc ưu tiên phát triển công nghệ lưỡng dụng của CNQP được coi là yếu tố then chốt không chỉ nhằm củng cố quốc phòng và phát triển kinh tế nói chung, mà còn là chỗ dựa vững chắc trong chiến lược xây dựng và phát triển CNQP của các nước trong điều kiện mới. Ngày nay, trước xu hướng cắt giảm ngân sách quốc phòng và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ dân dụng, một số nước tìm đến những công nghệ đỉnh cao trong khu vực này nhằm giảm gánh nặng chi phí trong lĩnh vực quốc phòng, nâng cao sức mạnh dân dụng với sức mạnh quân sự thông qua một hệ thống công nghệ chung.
Bốn là, kết hợp tự chủ, tự cường với mở rộng hợp tác quốc tế trong phát triển CNQP lưỡng dụng.
Trong phát triển CNQP lưỡng dụng, các quốc gia luôn đề cao nguyên tắc tự lực, tự cường, qua đó nâng cao khả năng tự chủ của CNQP. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là biệt lập, khép kín, mà chủ động tiếp cận công nghệ tiên tiến, tiếp thu kinh nghiệm phát triển thông qua hợp tác quốc tế. Thực tiễn cho thấy, trong điều kiện phát triển của khoa học - công nghệ, hàm lượng kỹ thuật - công nghệ trong các sản phẩm lưỡng dụng ngày càng cao. Với các nước đang phát triển, sự khan hiếm về vốn, công nghệ và các chuyên gia kỹ thuật buộc họ phải đẩy mạnh hợp tác. Do vậy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm lợi dụng công nghệ và nguồn vốn nước ngoài, thúc đẩy CNQP lưỡng dụng trong nước đang là chính sách quan trọng của các nước. Sự hợp tác giữa Nga và Trung Quốc; hợp tác song phương, đa phương của Indonesia với các nước khu vực châu Á và Đông Nam Á... đã chứng minh cho xu hướng này.
Như vậy, qua những kinh nghiệm từ quá trình phát triển CNQP lưỡng dụng ở một số nước trong khu vực và trên thế giới sẽ là những bài học quan trọng, góp phần đưa CNQP Việt Nam phát triển mạnh mẽ theo hướng hiện đại, lưỡng dụng.
TS. NGUYÊN LONG
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Đặng Tiểu Bình, “Bàn về cải cách mở cửa của Trung Quốc”, Nxb Thế giới, Hà Nội, 1995.
2. Trần Đăng Bộ, "Một số vấn đề cơ bản về kết hợp CNQP với công nghiệp dân dụng ở nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.
3. Trần Đăng Bộ, “Hiện đại hóa doanh nghiệp quốc phòng nòng cốt ở Việt Nam”, Đề tài cấp Học viện, Học viện Chính trị, Hà Nội, 2014.