Bản lĩnh Hồ Chí Minh qua những dấu ấn cách mạng Việt Nam

3/13/2024 2:24:05 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 3

CNQP&KT - Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, có lúc tưởng chừng bế tắc, thế nhưng Người đã vượt qua tất cả để cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Có nhiều yếu tố tạo nên kỳ tích đó và bản lĩnh Hồ Chí Minh chính là nhân tố quyết định.

Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau về bản lĩnh, song hiểu một cách chung nhất, bản lĩnh là sự dũng cảm trong mỗi người, thể hiện ở tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám đối mặt với khó khăn, thử thách. Bản lĩnh Hồ Chí Minh chính là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, ý chí quyết tâm cao, sự kiên định và năng lực hoạt động thực tiễn xuất sắc nhằm đạt mục tiêu cao cả: hòa bình, độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Bản lĩnh Hồ Chí Minh được thể hiện trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, trong đó những dấu mốc lịch sử của cách mạng Việt Nam mang đậm dấu ấn bản lĩnh của Người.

Vào đầu thế kỷ XX, khi đất nước chìm trong cảnh nô lệ, nhân dân chịu lầm than, nhiều phong trào yêu nước, đấu tranh nổ ra nhưng đều thất bại bởi thiếu một đường lối đúng đắn. Với lòng yêu nước nồng nàn và tình thương yêu nhân dân vô bờ bến: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"1, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh quyết định ra đi tìm đường cứu nước.

Khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Cách mạng tháng Mười Nga, Người đã tìm thấy con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ "cách mạng" có nhiều thứ, "chủ nghĩa", "học thuyết" cũng có nhiều nhưng chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là thành công "đến nơi" và chủ nghĩa Lênin là "chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất"2. Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"3. Người cũng nhận thức rõ sự cần thiết phải có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam và để thực hiện được điều đó, đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta rất khó khăn do phải đối diện với sự ngăn cấm, kiểm duyệt, lùng sục, bắt bớ gắt gao của thực dân Pháp và tay sai. Hơn nữa, Quốc tế Cộng sản chưa nhìn nhận một cách đầy đủ vị trí, vai trò của cách mạng thuộc địa. Trong khi đó, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng các nước thuộc địa ở châu Á có thể chủ động giành thắng lợi và "có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn"4. Mặc dù rất coi trọng sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, song Người luôn ý thức rõ là phải dựa vào chính mình để tự giải phóng, "muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã"5.

Năm 1929, ở Việt Nam tồn tại 3 tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn, đều tự nhận vai trò lãnh đạo cách mạng, tích cực mở rộng mạng lưới và phạm vi hoạt động. Điều này làm phân tán sức mạnh, gây hoài nghi trong quần chúng và tổn hại lớn cho phong trào cách mạng. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cấp bách là phải hợp nhất các tổ chức thành một Đảng Cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Với sự nhạy bén về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo thể hiện rõ con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam là "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"6. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc không được Quốc tế Cộng sản và một số đồng chí trong Đảng hiểu đúng, thậm chí còn cho là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, Người vẫn kiên trì giữ vững quan điểm và thực tế đã chứng tỏ quan điểm này là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.


Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định mở Chiến cuộc Đông Xuân (1953-1954) và Chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954). Ảnh: TL

Bản lĩnh Hồ Chí Minh trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 được thể hiện từ việc chỉ rõ đường lối cách mạng: "Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"7; đến xác định nhiệm vụ, xây dựng căn cứ địa cũng như lực lượng cách mạng. Đặc biệt, việc đánh giá đúng tình hình trong nước, quốc tế; phân tích rõ tình hình địch - ta để chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc với phương châm lấy sức ta mà giải phóng cho ta, "dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập"8, "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên!"9. Trong đó, việc thành lập Mặt trận Việt Minh đã đoàn kết mọi lực lượng và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, thể hiện tầm cao bản lĩnh và trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam; đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Sau đó, đất nước ta đứng trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc". Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng tỏ rõ bản lĩnh và sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, kiên định phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến", có nhiều quyết sách linh hoạt, kịp thời, khôn khéo để giải quyết tình hình "thù trong, giặc ngoài", nhằm bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, trong đó nêu rõ "Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"10. Lời kêu gọi như lời hịch, thôi thúc nhân dân cả nước vùng lên thực hiện kháng chiến "Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh", "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc". Sau 9 năm trường kỳ kháng chiến, quân và dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" (năm 1954), buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền của 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia.

Bản lĩnh Hồ Chí Minh là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, ý chí quyết tâm cao độ, sự kiên định và năng lực hoạt động thực tiễn xuất sắc nhằm đạt mục tiêu cao cả: hòa bình, độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, dân tộc Việt Nam lại phải đương đầu với đế quốc Mỹ xâm lược. Hồ Chí Minh với tầm nhìn chiến lược, luôn khẳng định quyết tâm cùng ý chí và niềm tin tất thắng "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!"11. Đồng thời, Người khẳng định "Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết của toàn dân từ Bắc đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, và nhân dân tiến bộ cả thế giới, chúng ta nhất định thắng!"12. Sau 20 năm đấu tranh anh dũng, ngày 30/4/1975, quân và dân ta đã hiện thực hóa mong ước của Người "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", thu giang sơn về một mối, đưa cả nước tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nói đến bản lĩnh Hồ Chí Minh không thể không nhắc đến việc Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Trung Quốc. Tính từ lúc bị bắt (28/8/1942) đến khi được trả lại tự do (10/9/1943), Hồ Chí Minh bị giải qua 30 phòng giam thuộc 18 nhà lao trên 13 huyện của tỉnh Quảng Tây, sống trong chế độ nhà tù ngột ngạt, hà khắc, sức khỏe suy giảm, nhưng Người vẫn giữ vững tinh thần lạc quan và không ngừng hoạt động cách mạng. Người đã viết tập thơ "Nhật ký trong tù" gồm 135 bài, thể hiện khí phách kiên cường, không lùi bước của một người cộng sản kiên trung. Bản lĩnh Hồ Chí Minh cũng thể hiện rõ trong suốt hành trình tìm đường cứu nước qua 3 đại dương, 4 châu lục và gần 30 quốc gia; đến khi trở thành lãnh tụ của Đảng, Người luôn giữ "cốt cách văn hóa" Việt Nam, đó là sự giản dị, gần gũi, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Cùng với đó, bản lĩnh Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở sự thẳng thắn trong tự phê bình. Người nêu rõ: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính"13.

Từ những nội dung nêu trên cho thấy, bản lĩnh Hồ Chí Minh được hình thành trên nền tảng tri thức khoa học; truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại; sự nỗ lực không ngừng vì mục tiêu độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Chính việc kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đây cũng là cơ sở thực tiễn bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Thời gian tới, để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao bản lĩnh, nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.

Đại tá, PGS, TS. PHẠM VĂN SƠN

Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Học viện Chính trị

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.627.

2. Sđd, tập 2, tr.304.

3. Sđd, tập 12, tr.30.

4. Sđd, tập 1, tr.48.

5. Sđd, tập 2, tr.320.

6. Sđd, tập 3, tr.1.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện

Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà

Nội, 1998, tập 7, tr.118-119.

8. Võ Nguyên Giáp, Tổng tập hồi ký, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2011, tr.130.

9. Sđd, tập 3, tr.596.

10. Sđd, tập 4, tr.534.

11. Sđd, tập 15, tr.131.

12. Sđd, tập 15, tr.132.

13. Sđd, tập 5, tr.301.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại