Bàn về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho Công nghiệp quốc phòng

9/27/2019 4:01:47 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 33

CNQP&KT- Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Đối với Công nghiệp quốc phòng (CNQP) Việt Nam, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò quan trọng trong nghiên cứu, cải tiến, chế tạo, sản xuất sản phẩm CNQP và kinh tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thành tựu mà ngành CNQP Việt Nam đạt được trong những năm qua là do có sự đóng góp rất lớn của đội ngũ cán bộ, công nhân viên, người lao động trong các cơ sở CNQP. Tuy nhiên, hiện nay, dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (Cách mạng 4.0), đòi hỏi ngành CNQP cần có những bước phát triển mới, đột phá về năng lực làm chủ khoa học và công nghệ (KHCN) tiên tiến, hiện đại. Do vậy, việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ Cách mạng 4.0 là yêu cầu tất yếu đối với ngành CNQP.

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực và cơ bản đáp ứng được về số lượng, chất lượng cho ngành CNQP. Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực đã tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn, như: khoa học cơ bản và các ngành công nghệ ứng dụng, cơ khí chế tạo máy, luyện kim, hóa chất, điện tử, tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ vũ khí, động lực, thuốc phóng - thuốc nổ, công nghệ tên lửa, ra-đa, đóng tàu quân sự, vệ tinh trinh sát, máy tính điện tử công suất lớn… Nguồn nhân lực phát triển CNQP gồm đội ngũ cán bộ quản lý, các nhà khoa học có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, kỹ sư; cán bộ kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao, đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, sửa chữa các sản phẩm quốc phòng và kinh tế. Tuy nhiên, từ thực tiễn phát triển KHCN hiện nay cho thấy, nguồn nhân lực CNQP vẫn còn một số mặt hạn chế, như: Đội ngũ cán bộ đầu ngành, chuyên gia giỏi, cán bộ KHCN có khả năng khai thác và làm chủ công nghệ hiện đại còn mỏng (chưa có tổng công trình sư), chưa khắc phục được tình trạng mất cân đối về ngành nghề, lĩnh vực. Đội ngũ công nhân kỹ thuật, thợ bậc cao có số lượng khá lớn nhưng tay nghề chưa đồng đều. Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý ở một số cơ sở CNQP nòng cốt có mặt còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu cho phát triển trong cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, độc lập thực hiện nhiệm vụ KHCN nhằm giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng trong một số lĩnh vực còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do công tác quy hoạch, đào tạo chưa thật chặt chẽ. Tuy nhận thức rõ tính cấp thiết về nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao, nhưng lãnh đạo, chỉ huy một số cơ sở CNQP, viện nghiên cứu, chưa chủ động phát hiện, đầu tư, đào tạo, bồi dưỡng mà còn trông chờ vào sự điều động của cấp trên. Mặt khác, ngành CNQP cũng chưa có cơ chế, chính sách huy động tiềm lực KHCN quốc gia, trong đó có nguồn nhân lực chất lượng cao tham gia phát triển CNQP.

Cán bộ Viện Vũ khí (Tổng cục CNQP) nghiên cứu thiết kế sản phẩm quốc phòng.             Ảnh: TUẤN MINH

Vì vậy, để nâng cao hiệu quả xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển CNQP trong giai đoạn mới, cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.

Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển CNQP trong thời kỳ mới, đội ngũ cán bộ cần được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng toàn diện, trước hết là bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, quản trị doanh nghiệp và chuyên môn nghiệp vụ. Trong đó, cán bộ quản lý cần được trang bị kiến thức toàn diện; cán bộ nghiệp vụ cần có trình độ chuyên môn sâu, gắn nâng cao trình độ lý luận với bồi dưỡng năng lực thực tiễn. Ưu tiên đào tạo những ngành nghề kỹ thuật, công nghệ đặc thù, nhất là lĩnh vực công nghệ cao gắn với hướng phát triển trọng tâm của CNQP như: thiết kế, chế tạo, cải tiến vũ khí, trang bị; thiết kế, chế tạo tên lửa, ra-đa, đóng tàu quân sự, công nghệ vật liệu mới, vật lý la-de, công nghệ điện tử - tin học, tự động hóa và điều khiển, hóa chất, cơ khí chính xác, luyện kim, gia công áp lực…

Đa dạng hóa các hình thức đào tạo với số lượng và cơ cấu hợp lý. Cần chú trọng đào tạo từ công nhân kỹ thuật đến đại học và sau đại học; gắn đào tạo với quy hoạch, bố trí sử dụng. Thực hiện phân công chuyên môn hóa ngành nghề đào tạo giữa các nhà trường quân đội với hệ thống các trường trong cả nước. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ, kỹ năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ toàn diện cho các chuyên gia đầu ngành có khả năng dẫn dắt các tập thể KHCN giải quyết những nhiệm vụ ngày càng khó khăn, phức tạp của ngành CNQP. Đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật cần có khả năng tiếp cận với KHCN tiên tiến thuộc chuyên ngành mình đảm nhiệm, có năng lực sáng tạo trong nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu KHCN mới; phát huy sáng kiến, cải tiến nâng cao tính năng kỹ - chiến thuật của vũ khí, trang bị. Đồng thời, quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, bao gồm cả đối tượng kỹ sư thực hành có khả năng làm việc trên các thiết bị công nghệ cao, tự động hóa. Nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viên; hiện đại hóa các phương tiện giảng dạy và huấn luyện, nhất là các trang bị mô phỏng vũ khí công nghệ cao; hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật tại các học viện, nhà trường và các cơ sở CNQP. 

Hai là, đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý, chính sách thu hút đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho CNQP.

Trước hết, cần đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý phát triển nguồn nhân lực cho CNQP. Cần nghiên cứu bổ sung các chế độ, chính sách để bảo đảm quyền lợi vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ, các nhà khoa học, công nhân kỹ thuật ở các cơ sở CNQP, nhất là các đơn vị đứng chân trên địa bàn chiến lược, làm việc trong những lĩnh vực nguy hiểm, độc hại… Công tác bố trí, sử dụng nguồn nhân lực cần quán triệt tôn chỉ: thu hút nhân tài; phân công công việc hợp lý; tạo môi trường làm việc và bảo đảm các quyền lợi để họ yên tâm công tác. Đối với đội ngũ làm công tác nghiên cứu KHCN, cần có chính sách, môi trường làm việc thuận lợi, tôn trọng và tạo cơ hội cho họ cống hiến, phát triển tài năng. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ phát huy năng lực của đội ngũ hiện có, đồng thời góp phần khắc phục tình trạng “chảy máu chất xám” ở các cơ quan, đơn vị nghiên cứu KHCN và các cơ sở CNQP. Để thực hiện có hiệu quả, cơ chế, chính sách cần bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa cống hiến và hưởng thụ tương xứng, không cào bằng, bình quân. Chú trọng kết hợp chặt chẽ giữa khuyến khích bằng vật chất với động viên tinh thần, tạo động lực phấn đấu cho mỗi cá nhân cũng như tập thể. Cần có kế hoạch và ưu tiên ngân sách cho đào tạo, bồi dưỡng các chuyên gia giỏi, đầu ngành, tổng công trình sư. Những phát minh, sáng kiến, đề tài nghiên cứu được áp dụng vào thực tiễn mang lại hiệu quả thiết thực cần được khen thưởng kịp thời. Đẩy mạnh đầu tư ngân sách và huy động thêm nhiều nguồn lực trong và ngoài nước, kể cả việc khuyến khích xã hội hóa, để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho CNQP. Tăng cường đầu tư cho các nhà trường và các viện nghiên cứu trong Quân đội để nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo.

Ba là, mở rộng hợp tác quốc tế trong xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho CNQP.

Trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, cần mở rộng, thực hiện hiệu quả các chương trình hợp tác, liên kết đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực KHCN và cán bộ quản lý, tập trung vào các ngành mũi nhọn mà CNQP đang thiếu, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao. Khuyến khích các mô hình liên kết giữa đào tạo, bồi dưỡng với nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với sản xuất, cải tiến; đồng thời, liên kết đào tạo giữa các nhà trường trong và ngoài Quân đội với hợp tác quốc tế để đáp ứng nhu cầu phát triển của CNQP. Bên cạnh đó, cần hợp tác với các chuyên gia giỏi về thiết kế công nghệ các ngành kỹ thuật công nghệ cao, như: đóng tàu quân sự, chế tạo tên lửa, thuốc phóng - thuốc nổ, ngòi nổ, súng pháo phòng không… để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học tài năng và có kinh nghiệm hợp tác quốc tế, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho CNQP. Nâng cao hiệu quả hợp tác, liên kết đào tạo giữa các viện, trường Quân đội, các cơ sở nghiên cứu KHCN, các cơ sở sản xuất CNQP với hình thức song phương hoặc đa phương. 

Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho CNQP, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, là một nhiệm vụ cấp thiết, đòi hỏi nhiều giải pháp đồng bộ, vững chắc. Vì vậy, cần có sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp và cần bổ sung, điều chỉnh cơ chế phù hợp để thu hút, phát huy năng lực sáng tạo của đội ngũ cán bộ, các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành, đội ngũ thợ bậc cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển ngành CNQP Việt Nam trong thời kỳ mới.

Đại tá NGUYỄN ĐÌNH HOÀN & Đại úy QNCN, ThS. NGUYỄN THỊ THẮNG

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại