Hoạt động đầu tư nước ngoài của doanh nghiệp Quân đội: Kết quả tích cực trên nhiều lĩnh vực

7/25/2017 11:40:37 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 43

(CNQP&KT) - Trải qua 30 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài (từ năm 1987 đến nay), các doanh nghiệp Quân đội (DNQĐ) đã chủ động khắc phục khó khăn, tận dụng tốt những cơ hội của quá trình hội nhập để đẩy mạnh hoạt động đầu tư nước ngoài, từ đó đạt được những kết quả tích cực trên nhiều lĩnh vực.

Hoạt động mang tính hướng ngoại đầu tiên của các DNQĐ phải nói đến là việc liên doanh, liên kết với nước ngoài. Từ những năm đầu của thập niên 90 (thế kỷ XX) đến năm 1997 có trên 50 dự án mà DNQĐ liên doanh, liên kết với nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 1997, nhiều đối tác không thu xếp được nguồn vốn, cùng với việc chưa làm tốt công tác xúc tiến và khảo sát đầu tư… dẫn tới nhiều dự án phải dừng triển khai, giải thể, thu hồi giấy phép. Từ năm 1997 đến nay, tuy số lượng dự án mở mới không nhiều nhưng có quy mô vốn đầu tư khá lớn. Tính đến hết năm 2016, Bộ Quốc phòng còn 16 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động với tổng số vốn trên 651 triệu USD; tổng vốn pháp định khoảng 300 triệu USD, trong đó các DNQĐ góp vốn trên 134 triệu USD, số còn lại là vốn góp của đối tác nước ngoài.

Phân theo lĩnh vực đầu tư thì dịch vụ (cảng biển và sửa chữa máy bay) có 5 dự án, với số vốn chiếm 65,9%; kinh doanh bất động sản (cho thuê văn phòng, căn hộ, hạ tầng khu công nghiệp, khách sạn) có 5 dự án, với số vốn chiếm 25,75%; lĩnh vực sản xuất (thiết bị y tế và linh kiện điện tử) có 2 dự án và lĩnh vực khác (kinh doanh khí đốt và đào tạo) có 3 dự án. Tổng doanh thu năm 2016 của hoạt động này đạt trên 180 triệu USD; lợi nhuận sau thuế đạt 31 triệu USD. Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu đạt 17,2%; lợi nhuận/vốn chủ sở hữu đạt 11,7%. Các dự án hiện đang sử dụng khoảng 1.600 lao động. Các DNQĐ thực hiện liên doanh, liên kết hiệu quả, gồm: Công ty TNHH Cảng Container Cái Mép, Công ty TNHH Phát triển Khu công nghiệp Long Bình, Viettel IDC, Công ty Cổ phần Thiết bị y tế Vinahankok, Công ty Cổ phần Dịch vụ kỹ thuật Trực thăng. Kết quả thu nộp ngân sách của các dự án liên doanh, liên kết được thực hiện nghiêm, đóng góp thiết thực cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều lao động...

Trong khi đó, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các DNQĐ được bắt đầu từ năm 2003. Các DN đã thực hiện nhiều dự án có quy mô đầu tư lớn, thời gian triển khai nhanh, hiệu quả cao; chấp hành tốt pháp luật đầu tư ra nước ngoài, cũng như tuân thủ các quy định liên quan trong quá trình triển khai dự án. Một số DN được các nước sở tại đánh giá cao do có sự đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng và tham gia xóa đói, giảm nghèo ở các địa bàn chiến lược của nước bạn. Ngoài hiệu quả kinh tế, nhiều dự án được triển khai tại các tỉnh dọc tuyến biên giới giữa Việt Nam với các nước bạn đã và đang góp phần quan trọng trong việc xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Cắt băng khai trương Chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội tại CHDCND Lào (năm 2011).      Ảnh C.T.V

Tính đến hết năm 2016, Bộ Quốc phòng có 33 dự án đầu tư ra nước ngoài, với tổng số vốn đạt trên 5 tỷ USD. Theo lĩnh vực đầu tư, viễn thông đứng đầu với 12 dự án (chiếm 36% tổng số dự án), với tổng số vốn gần 4,9 tỷ USD (chiếm 89,3% tổng vốn đầu tư); lĩnh vực trồng cây công nghiệp có 9 dự án với tổng số vốn 263 triệu USD; các lĩnh vực khác như xây dựng, khai khoáng, khách sạn có 12 dự án, với tổng số vốn 315 triệu USD. Phân theo địa bàn đầu tư: Tại Lào, các DNQĐ triển khai 16 dự án; Cam-pu-chia với 7 dự án; các thị trường khác (chủ yếu là châu Phi, Nam Mỹ và châu Á) có 10 dự án. Năm 2016, doanh thu của hoạt động này đạt hơn 1 tỷ USD, lũy kế đạt gần 5 tỷ USD, số tiền đã chuyển về Việt Nam đến năm 2016 đạt trên 475 triệu USD. Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Tổng Công ty Hợp tác Kinh tế Quân khu 4 là những DNQĐ tiên phong, tiêu biểu trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài; các DN khác, như: Binh đoàn 15, Công ty Tây Nam (Quân khu 7), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (MB)… đang tích cực triển khai thực hiện đầu tư ra nước ngoài ở các lĩnh vực phù hợp với địa bàn hoạt động, lợi thế cạnh tranh và năng lực của mình.

Trong hoạt động xuất nhập khẩu, các DNQĐ cũng tận dụng tốt những thuận lợi của quá trình hội nhập quốc tế, chủ động tổ chức lại sản xuất, bố trí lực lượng lao động, cải tiến công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, nhất là tích cực trong việc duy trì thị trường truyền thống, khai thác thị trường mới. Nhờ đó, hoạt động xuất nhập khẩu của các DN nhìn chung luôn duy trì được đà tăng trưởng khoảng 10%/năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2016 đạt trên 1,3 tỷ USD. Nhiều mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn, như: Dệt may, da giày, chế biến thủy hải sản, túi siêu thị và lưới ngụy trang... Năng lực cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu ngày càng được cải thiện và được thị trường nước ngoài chấp nhận. Nhiều DN đạt mức tăng trưởng xuất khẩu cao, như: Nhà máy Z117, Z176, Z189 của Tổng cục Công nghiệp quốc phòng; Công ty 20, 28, 32 của Tổng cục Hậu cần. Một số DN nhiều năm liền đạt danh hiệu “Doanh nghiệp xuất khẩu uy tín” của Bộ Công Thương.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ về công tác đào tạo nghề, tạo việc làm cho bộ đội xuất ngũ, từ năm 2001 đến nay, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các DNQĐ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng Nhà nước, các trường dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng triển khai đào tạo và đưa được hàng chục nghìn bộ đội xuất ngũ sang làm việc tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE)... Đây là việc làm hết sức có ý nghĩa về mặt xã hội của các DNQĐ có chức năng đào tạo nghề và xuất khẩu lao động.

Có thể nói, thời gian qua, hoạt động kinh tế đối ngoại và hoạt động đầu tư nước ngoài của các DNQĐ đạt được nhiều kết quả tích cực. Năm 2016, doanh thu từ hoạt động đầu tư nước ngoài đạt trên 27.000 tỷ đồng, chiếm gần 8% tổng doanh thu của các DNQĐ. Ngoài hiệu quả kinh tế, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các DNQĐ còn mang ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc.

Đạt được kết quả trên là do Nhà nước đã có những cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho DN. Cùng với đó là sự quan tâm ủng hộ của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, sự phối hợp hiệu quả của các cơ quan chức năng trong việc thẩm định, giải quyết các đề xuất liên quan tới hoạt động kinh tế đối ngoại của các DN; đồng thời, công tác quản lý, giám sát dự án sau cấp phép được quan tâm và sự phối hợp của các bộ, ngành, địa phương, đơn vị liên quan giúp giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện… Về phía các DN, đã tích cực, chủ động xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất-kinh doanh và đầu tư phù hợp với định hướng của Chính phủ…

Tuy nhiên, hoạt động đầu tư nước ngoài mới chỉ được triển khai ở một số DN có tiềm năng, lợi thế về lĩnh vực và địa bàn hoạt động; gặp  nhiều khó khăn do sự khác biệt về thị trường, ngôn ngữ, văn hóa, thủ tục pháp lý, biến động kinh tế, chính trị, chính sách tại địa bàn đầu tư. Bên cạnh đó, một số DN chưa thực hiện tốt công tác chuẩn bị triển khai dự án, như: Chưa nghiên cứu, tìm hiểu, nắm chắc cơ chế, chính sách và pháp luật đầu tư của nước sở tại; chưa đánh giá đầy đủ các yếu tố rủi ro ảnh hưởng tới hiệu quả của dự án đầu tư; chưa xây dựng được đội ngũ cán bộ đủ năng lực phục vụ cho hội nhập và triển khai hoạt động kinh tế đối ngoại…

Thời gian tới, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam tiếp tục được đẩy mạnh nhờ các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương bắt đầu có hiệu lực. Hội nhập quốc tế mang đến cho các DN Việt Nam nói chung, DNQĐ nói riêng nhiều cơ hội lớn để phát triển. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng cũng đang đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới và phát triển DNQĐ với mục tiêu tạo ra những DN có quy mô phù hợp, thương hiệu mạnh, đủ sức cạnh tranh với các DN trong và ngoài nước; sản xuất, kinh doanh hiệu quả, hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị. Để tận dụng tốt những cơ hội nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đầu tư ra nước ngoài, các DNQĐ cần quan tâm tới một số vấn đề sau:

      Thứ nhất, cần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước của các cơ quan chức năng thông qua việc thúc đẩy nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho DN triển khai hoạt động hợp tác quốc tế, đầu tư nước ngoài; tăng cường sự phối hợp, giám sát và kiểm tra giữa các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng với các cơ quan quản lý Nhà nước, nhằm kịp thời chấn chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài đúng chủ trương, định hướng của Chính phủ và Bộ Quốc phòng; kịp thời hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho DN trong quá trình triển khai hoạt động.

Thứ hai, tăng cường các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ hoạt động hợp tác quốc tế, đầu tư nước ngoài, trong đó đặc biệt chú trọng hỗ trợ cung cấp thông tin về môi trường, cơ hội đầu tư, kinh doanh, bảo hộ quyền lợi của DN Việt Nam trong quá trình đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài.Thông báo kịp thời cho các DN khi nước ngoài thay đổi chính sách ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, đầu tư của DN.

Thứ ba, tăng cường công tác tập huấn, đào tạo bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về quản trị DN, trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ DN liên quan tới hoạt động hội nhập quốc tế và kinh tế đối ngoại. Phối hợp với các cơ quan chuyên ngành mở các lớp đào tạo về quản lý đầu tư nước ngoài, các lớp bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ chuyên sâu về hội nhập kinh tế quốc tế, kiến thức về giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh tế có yếu tố nước ngoài…

Thứ tư, các DNQĐ cần tích cực, chủ động thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp, đổi mới, nâng cao năng lực quản trị, năng lực cạnh tranh; tích cực tham gia các chương trình xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại của Nhà nước và Bộ Quốc phòng để tìm kiếm đối tác liên doanh, liên kết, thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Hoạt động đầu tư nước ngoài thời gian qua đã được các đơn vị, DNQĐ quan tâm thúc đẩy, triển khai thực hiện hiệu quả, thể hiện sự năng động, chủ động của các DNQĐ trong việc tìm hướng phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là tiền đề, cơ sở để rút ra kinh nghiệm và bài học  nhằm thúc đẩy các DNQĐ tiếp tục hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng ngày càng đạt hiệu quả tốt hơn.

Đại tá Phạm Văn Mười

Cục Kinh tế - Bộ Quốc phòng

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại